QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Wednesday, July 27, 2016

NHỚ BÀ NGÔ ĐÌNH NHU


 
From: Van Mai Nguyen <
Date: 2016-07-26 10:25 GMT+02:00
Chủ đề: BÀ NGÔ ĐÌNH NHU xuan
NHỚ BÀ NGÔ ĐÌNH NHU 
                                                          
Mùa Phc Sinh li đến.  Chúa sng li trong nim hoan lc ca con cái Chúa và vì Chúa sng li cũng đ cho chúng con được sng li trong vinh quang.  Bui sáng l Phc Sinh năm 2011, Bà Ngô Đình Nhu đã trút hơi th cui cùng ti mt bnh vin La Mã trong khi mi người đang rn ràng mng l Chúa Phc Sinh.  Bà đã chết đi trong ánh sáng ca Chúa Phc Sinh.  Bà đã âm thm và lng l trên đường đi v Nhà Cha như mi bui sáng bà li thi đơn côi đi dâng thánh l bt đu cho mt ngày mi.  Bà đã sng li trong nim tin yêu vô cùng nơi Thiên Chúa là nơi bà đã ngày đêm cy trông và nương ta trong nhng tháng ngày đau kh nơi trn gian.
 Rt nhiu người đt câu hi rng trước khi lìa trn bà Ngô Đình Nhu có trăn tri qua tiếng nói hay bút tích không.  Câu tr li là có và đây là li trăn tri ngn gn được bà viết bng tiếng Pháp:

"Tôi Trần Lệ Xuân, Dân biểu lập Hiến Pháp,Dân biểu quốc Hội, Chủ tịch Phong trào Phụ Nữ Liên Đới,Vâng lệnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm,với sự đồng ý của chồng tôi, ông cố vấn Ngô Đình Nhu, rời Viêt Nam sang các nước Tây Phuơng tranh đấu cho sự thật và độc lập của đất nước tôi, trong lúc tôi rời đất nước các thế lực Tây Phương đã dùng nhóm phản loạn, phản bội lại chính quyền Dân Chủ và Độc Lập Việt Nam Cộng Hoà, đã sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Gia tộc của Tổng Thống và chồng tôi,  sứ mệnh của tôi càng trở nên khó khăn hơn, khi còn gái của tôi Ngô Đình Lệ Thủy bị sát hại vì muốn nói lên tiếng nói sự thật, sứ mệnh của tôi chưa hoàn tất, tôi vẫn là con dân Việt Nam Cộng Hoà, vẫn là Sứ Giả của nước Việt đến hơi thở cuôi cùng với Sự Vụ Lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm"

Bà Ngô Đình Nhu được Tổng Thống Ngô Đình Diệm trao phó một sứ vụ vô cùng khó khăn và nặng nề. Thân nhi nữ cô độc gánh vác sứ vụ đội đá vá trời chống đỡ lại những mưu mô và kế hoạch thâm độc của Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế được sự thông đồng của Mỹ để triệt hạ chính thể Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà. Bà đã vẫy vùng trong một vũng lấy của những gian manh xảo quyệt của các hệ thống truyền thông quốc tế và ác tâm của một đường lối vô nhân đạo mà chánh quyền Hoa Kỳ đương thời chỉ với một mục đích phục vụ quyền lợi của một nhóm tư bản đứng sau toà Bạch Cung đã tàn nhẫn xuống tay đưa cả dân tộc Việt Nam vào vòng điêu linh thống khổ.  Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người đặt quyền lợi và danh dự quốc gia hơn cả mạng sống mình đã bị thảm sát vô cùng dã man. Bà Ngô Đình Nhu cũng bị tắt tiếng sau cái chết đau thương của vị nguyên thủ quốc gia. 

Bà Nhu được giao phó nhiệm vụ “tranh đấu cho sự thật và độc lập của đất nước”.
Bà lên đường với một sự vụ lệnh của Tổng thống và bà đã vô cùng dũng mãnh quyết liệt chống chọi với bọn truyền thông gian manh quốc tế và những xảo quyệt của chính quyền Hoa Kỳ. 
Mùa thu năm 1963 cả thế giới đã kinh ngạc nghe và nhìn bà Nhu mạt sát và lên án những người được gọi là bạn, là đồng minh Hoa Kỳ ngay tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch Cung mấy con đường. Nhiều người cho đó là một hành vi thiếu khôn ngoan nhưng có ai thấu hiểu đó chỉ là những tiếng kêu tuyệt vọng của một người lương thiện trước khi bị bọn gian manh thổ phỉ hành quyết.  
Đọc những dòng chữ trăn trối của bà Nhu thì không ai có thể phủ nhận được tâm huyết của bà với non sông đất nước.  Nằm trên giường bệnh trong giờ phút lâm chung nhưng bà không nghĩ đến những oan cừu khổ nạn mà bà và cả gia đình bà phải thống khổ chịu đựng.  Bà không thù oán những người đã cầm súng bắn vào chồng bà bởi vì bà nói “đó là một bọn ngu dốt” không đáng đếm xỉa đến. Nhưng hơi thở cuối cùng của bà vẫn trông về quê hương yêu dấu mà bà đã can đảm dự phần trong công trình xây dựng một quốc gia thanh bình thịnh vượng,toàn dân sống trong tự do no ấm. Bà tiếc nuối vì sứ mạng đã bị trù dập và không hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Bà vẫn tự gánh vác trọng trách đó cho đến hơi thở cuối cùng trong đơn côi lặng lẽ cho dù đó chỉ là những ước vọng của những giây phút tàn hơi. 
Một lãnh tụ chánh trị khoe đã gặp bà Nhu và nghe than thở “thời của tôi đã hết rồi”. 
Đây cũng chỉ là một tưởng tượng nghèo nàn của vị lãnh tụ này mà thôi.  Bởi vì những giây phút cuối đời thì bà Nhu khẳng định:
vẫn là Sứ Giả của nước Việt đến hơi thở cuôi cùng với Sự Vụ Lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm... 

Bài viết này đến tay độc gỉả nhân ngày giỗ thứ năm bà Ngô Đình Nhu.  Từ sau ngày Đệ Nhất VNCH sụp đổ, bà Nhu  sống đơn độc nơi đất khách quê người gần như hoàn toàn cách biệt với những sinh hoạt chộn rộn của một con người.  Người yêu kẻ ghét với những lời khen tiếng chê đã không lọt qua bức tường căn phòng nhỏ hẹp của một người muốn rũ bỏ tất cả những oan cừu trần gian. Bà sống khổ hạnh như một nữ tu ngong ngóng trông chờ giây phút “đoàn tụ” với ông chồng mà bà hết lòng yêu thương và kính phục.

Gần đây có một quyển sách viết về bà Nhu bằng tiếng Anh với tựa đề FINDING THE DRAGON LADY của tác giả Monique Demery và vừa được dịch sang tiếng Việt Nam với một loại chữ nghĩa văn thể rất kệch cỡm : MADAM NHU TRẦN LỆ XUÂN QUYỀN LỰC BÀ RỒNG. Tác giả Demery đã có một thời gian “học tập” ở Hà Nội, nói tiếng Việt thành thạo giọng đặc Hà Nội. Tôi có xem qua quyển sách này, không có gì gọi là tư liệu hay lịch sử.  Từ đầu đến cuối chỉ là những sao chép vụng về  chẳng có một giá trị nào dù rất nhỏ nhoi. Vào Google đánh chữ Bà Ngô Đình Nhu thì có đến gần 4 triệu tài liệu và bài viết nói về bà Nhu được đăng tải rải rác trên nhiều mạng lưới vi tính từ nhiều quan điểm khác nhau đã được bà Demery vơ vét làm của riêng mình rồi nặn óc sáng chế ra một cái tựa sách nghe ra cũng độc mồm độc miệng. Bà Demery viết và đọc tiếng Việt Nam thành thạo nên đa số những cái gọi là “tài liệu hiếm qúy” trong quyển sách này đã từ lâu xuất hiện trên các mạng lưới vi tính Việt ngữ. Tựa đề của cuốn sách trong bản dịch tiếng Việt với mấy chữ QUYỀN LỰC BÀ RỒNG có thể làm người đọc hình dung ra hình ảnh của một “bà rồng” mặt sắt đen xì dữ tợn hung ác nhưng trong cả cuốn sách chỉ toàn là những nhai đi nhai lại nhàm chán trên các mạng lưới vi tính Việt ngữ chứ chẳng thấy “bà rồng” đâu.   

Tác gi Demery s bin minh như thế nào khi gán ghép cho bà rng mt giai thoi như sau:   

 When her brother-in-law, President Ngo Dinh Diem, had once questioned the modesty of Madame Nhu’s slim-fitting tunics, referring to their décolletage, she is said to have silenced him with a withering reply: “It’s not your neck that sticks out, it’s mine. So shut up”
(P.18)
Một dịch giả dễ tính có thể chuyển dịch những dòng chữ này một cách giản lược như sau: 

Tổng Thống Ngô Đình Diệm tỏ vẻ không được hài lòng vì cái áo dài hở cổ của bà Nhu.  Nhưng bà em dâu đã xấc xược trả lời ông anh chồng: “Cái cổ tôi hở ra chứ không phải cổ của ông.  Vậy thì ông câm mồm đi.”

Đọc những dòng chữ bặm trợn này thì ai cũng có thể lượng giá được khả năng viết lách của tác giả và giá trị của quyển sách.

Đã rất lâu tôi có xem một phim tài liệu của hai nhà nữ nhân chủng học người Mỹ làm công việc khám phá một bộ lạc gần như tuyệt chủng ở trong rừng rậm Phi châu và chưa hề có bất cứ một tiếp xúc dưới bất cứ hình thức nào với thế giới bên ngoài. Hai nhà nữ nhân chủng học này đã lặn lội trong những điều kiện vô cùng gian khổ và đã đến được nơi muốn đến.  Hai cô gái xinh đẹp này đã sống với hai người đàn ông hiếm hoi còn lại của bộ tộc này như vợ chồng trong thời gian một năm. Họ học tiếng nói cũng như ăn uống sinh hoạt như một thành viên của bộ tộc và như là những người vợ của hai người đàn ông còn lại của bộ tộc trước ngày bị hoàn toàn diệt chủng. Hai cô gái trở về Mỹ đã cống hiến cho thế giới một tài liệu phong phú và những thước phim chân thực sống động vô cùng qúy giá. Họ đã tự mang cả thân mình ra để làm một công việc mà họ say mê và bằng mọi cách phải đạt đến mục tiêu tuy rằng phương cách làm việc của họ không đáng được khuyến khích và đề cao. 

Tác giả Demery cũng chỉ nghe và biết đến bà Nhu qua báo chí và những bài viết trên các mạng lươí vi tính mà thôi. Trong cuốn sách, bà Demery xác nhận có hẹn gặp bà Nhu hai lần nhưng cả hai lần bà Nhu đều thất hẹn. Mặc dù bà Nhu sống đời ẩn dật tự giam hãm mình trong một căn phòng nhỏ nhưng bà Nhu cũng có những chọn lựa và suy tính trong các giao tiếp rất hiếm hoi. Bà Demery hẹn gặp bà Nhu ở nhà thờ Saint Leon là nơi bà Nhu đi lễ hàng ngày. Thế nhưng đến ngày giờ hẹn thì bà Nhu lại không đến.Lần sau thì bà Nhu hẹn gặp tại nhà, bà Demery đến đúng hẹn nhưng bà Nhu lại không mở cửa. Bà Nhu cũng chẳng mặn mà gì với những gặp gỡ này và cố tình hủy bỏ cuộc hẹn.

Vậy thì ngoài những sao chép trên các mạng lưới vi tính và chưa một lần được gặp bà Nhu thì bà Demery lấy gì và biết gì để viết về cả một cuộc đời cay đắng nghiệt ngã của bà Nhu? 

Rất nhiều người có chung một quan điểm là nếu bà Nhu có mặt tại dinh Gia Long vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 thì cục diện của vụ phản loạn chắc chắn đã không xẩy ra như vậy. Là thân nữ nhi nhưng bà Nhu lại có một dũng chí và rất quyết liệt trong những tình huống dầu sôi lửa bỏng. Thưở sinh thời, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ nhiều lần tiếc nuối nói nếu như bà Nhu không đi ra nước ngoài thì chắc là vụ phản loạn đã bị dẹp tắt ngay từ những tiếng súng lạch cạch của mấy chú tân binh quân dịch từ trung tâm huấn luyện Quang Trung. Ông Duệ nói rằng bà Nhu rất kính trọng và phải nói là rất sợ ông anh chồng Tổng Thống nhưng lúc cần phải lên tiếng thì bà cũng rất mạnh bạo. Nhiều người truyền miệng câu chuyện bà Nhu bị Tổng Thống Diệm giận dữ ném cái gạt tàn thuốc lá vào người thì đó cũng chỉ là một bịa đặt nhảm nhí. 
Nghị sĩ Lê Châu Lộc nguyên là tùy viên của Tổng Thống Diệm xác nhận là bà Nhu cũng như tất cả những người khác muốn gặp Tổng Thống thì đều phải đi qua một lịch trình xếp đặt của Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống. Rất ít khi bà Nhu xin gặp Tổng Thống và những lần diện kiến ngắn ngủi dăm ba phút đó thì bà Nhu ăn mặc rất chỉnh tề, cánh cửa văn phòng Tổng Thống mở rộng và bên ngoài là các sĩ quan tùy viên và nhân viên văn phòng. Nếu bà Nhu là một loại đàn bà đanh quánh hỗn láo thì chắc hẳn là thiên hạ sẽ được nghe và nhìn thấy những hoạt cảnh ồn ào chợ búa trong những ngày tháng nơi xứ lạ quê người.

Tổng Thống Diệm đặc biệt qúy mến bà Nhu vì đã mạnh bạo hoàn thành bộ luật gia đình và nhất là bà Nhu đã sinh ra hai người con trai để nối tiếp dòng họ Ngô Đình. 
Ông Ngô Đình Luyện có hai đời vợ nhưng cũng chỉ có một binh đội đến mười cô con gái, mãi đến người con út mới được một mống con trai. Con trai lớn của bà Nhu là Ngô Đình Trác lấy vợ người Ý và bây giờ cũng có cháu gọi là ông nội rồi. 
Người con trai nhỏ là Ngô Đình Quỳnh làm việc ở nước Bỉ và không lập gia đình cũng đã trên sáu mươi tuổi. 
Từ sau năm 1963, ông Ngô Đình Trác sống ở Roma và chưa một lần đi ra khỏi nước Ý. Câu chuyện đồn thổi bà Nhu cho ông Trác sang Mỹ để xin lỗi người này người kia cũng chỉ là một bịa đặt láo khoét mà thôi.

Các tài liệu về vụ phản loạn 1 tháng 11 năm 1963 do Hoa Kỳ điều động đã được hoàn toàn giải mã. Đám quân nhân và các tổ chức liên hệ chỉ thi hành những mệnh lệnh từ một bọn kiêu binh tác oai tác quái lợi dụng sự nhu nhược của một ông tổng thống tồi tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Bà Nhu biết và hiểu rõ phương cách điều hành của các cơ chế chánh trị Mỹ. Tất cả đều bị sai khiến bởi các thế lực đứng sau toà Bạch Cung. Nói một cách rõ ràng là những thế lực đó được điều hành và nhận chỉ thị từ những nhóm Do Thái có thực lực nắm giữ huyết mạch chánh trị và tài chánh của nước Mỹ. Cũng chính những thế lực này, qua bàn tay của Henry Kissinger đã dâng hiến nước Việt Nam Cộng Hoà cho khối cộng sản quốc tế.

Khi nói về cái chết thảm thương của Tổng Thống Ngô Đình Diệmông Cố Vấn thì bà Nhu cũng chỉ nhỏ nhẹ nói “Tổng thống của nó mà nó còn giết thì tổng thống của mình nó coi ra gì”. Chữ “nó” đây bà Nhu cố ý nói về các thế lực Do Thái trong chính trường Hoa Kỳ. 
Tổng Thống Kennedy đã bị bắn chết trước mắt hàng triệu dân Mỹ mà cho đến nay hơn một nửa thế kỷ sau vẫn không một cá nhân hay tổ chức nào dám phanh phui ra tên tuổi của đứa đã cầm súng bắn vào đầu Tổng Thống Kennedy. 
Những thế lực này mạnh đến nỗi ngay khi ông Obama được đảng Dân Chủ đề cử cũng đã vội vàng bay sang Do Thái “trình diện”. Trong suốt gần hai nhiệm kỳ tổng thống, ông Obama chưa hề có một lời nói hay hành động nào làm mích lòng Do Thái. Đôi khi cũng có tiếng bấc tiếng chì nhưng đó chỉ là những trình diễn có xếp đặt mà thôi. 
Bà Nhu rất căm thù những nhóm quyền lực Do Thái đứng sau toà Bạch Ốc.Cũng chính bọn này đã mua chuộc được hầu như tất cả giới truyền thông quốc tế để cùng toa rập với nhau triệt hạ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà rồi sau đó dâng hiến cho cộng sản quốc tế. Khi nói về cái chết của cô trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy, bà Nhu vẫn có những câu hỏi về vai trò của tổ chức tình báo Do Thái trong tai nạn giao thông thảm khốc này.  

Ai cũng biết là từ ngày tủi nhục vất vưởng nơi quê người, bà Nhu sống rất nghèo khổ, nhiều năm sống trong cơ hàn.
Trong một bài viết, tôi có đề cập đến nhà bà Nhu là một đơn vị gia cư trong một chung cư bề thế ở thủ đô Paris. Địa chỉ của chung cư đó là số 24 Rue du Suffrene, Paris 15.Tôi viết một cách lập lững rằng một tỷ phú người Ý vì thương cảm nên đã cho bà Nhu một số tiền kếch xù để mua một lúc hai đơn vị gia cư, một để ở và cái khác cho thuê lấy tiền sinh sống. Sự thật không phải như vậy.Vị tỷ phú này có lòng từ tâm và rất thương cảm hoàn cảnh của bà Nhu. Tuy nhiên vị tỷ phú này biết sử dụng và đầu tư đồng tiền một cách rất khôn ngoan bên cạnh lòng nhân ái cứu giúp người hoạn nạn.  Bà Nhu được vị tỷ phú này nhờ mua một lúc hai đơn vị gia cư của một chung cư ở vị trí rất đẹp ở thủ đô Paris bởi vì bà Nhu vẫn còn những liên lạc với một số chính khách Pháp và có thể nhờ cậy các vị này trong việc thương thảo mua bán. Bà Nhu đã nhờ một vị cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua hai đơn vị gia cư.  Không ai biết những cam kết và hợp đồng giữa bà Nhu và vị tỷ phú người Ý như thế nào nhưng ai cũng biết là lúc còn sống thì bà Nhu sinh sống ở một đơn vị và cái khác cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn để có tiền chi tiêu. Chỉ một thời gian ngắn sau khi bà Nhu từ trần thì các con của vị tỷ phú này đã tiến hành thủ tục pháp lý lấy lại hai đơn vị gia cư này.  Việc chuyển giao đã tiến hành một cách âm thầm và êm đẹp. Tất nhiên trị giá của hai đơn vị gia cư này đã cao hơn nhiều lần lúc mua. 

Trong một lần tôi đang nói chuyện với bà Nhu thì chuông điện thoại reo, bà Nhu đứng lên cầm ống điện thoại nhờ người gọi lấy dùm cái chụp đèn ở ngoài tiệm về. Bà Nhu nói với tôi là rất thích cái chụp đèn bằng vải này nhưng vì quá cũ nên có chỗ bị rách. Bà nhờ người mang ra tiệm sửa lại nhưng tiền công sửa quá đắt, đến cả gần một trăm euros nên thôi không sửa nữa. Nếu bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim như một vài “sử liệu” tiết lộ thì đâu có phải tính toán đắn đo gì với số tiền công sửa cái chụp đèn này.

Sau ngày phản loạn 1-11-1963, để lấy điểm với một vài phe nhóm và bọn tay sai nằm vùng của cộng sản Bắc Việt thì những người nắm quyền đương thời cũng trình diễn ra những cái gọi là ủy ban điều tra tội ác và tài sản nhà Ngô.  Cuối cùng thì những ủy ban này với bao nhiêu hận thù và điêu ngoa gian dối sau khi vắt cạn kiệt ác tâm cũng đã chế tạo ra được hai cái “sử liệu” rất hoành tráng để đưa vào “chính sử”. 
  • Thứ nhất là bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây.
  • Thứ nhì là Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tàn sát ba trăm ngàn Phật tử ở miền Trung. 
Các “sử gia chân chính” đã xác nhận như vậy thì chắc hẳn phải là “chính sử”.!!!  

Chung cư 24 Rue du Suffren Paris 15

Nói và viết về bà Ngô Đình Nhu thì toàn là những chuyện buồn phiền đau khổ.  Vậy xin kể một chuyện vui vui: 
-Một thanh niên người Ý bảnh trai con nhà gia thế cùng cha mẹ thưa chuyện với bà Nhu xin cưới cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên, tiến sĩ Luật Khoa Roma. Trong lúc vui vẻ chuyện trò thì bà Nhu nói với chàng rể tương lai rằng mỗi tuần lễ bà chỉ ăn hai hay ba lần thôi, nếu anh có thể ăn uống được như vậy thì tôi sẽ gả út cưng cho. Anh chàng này vẫn có lòng kính phục bà mẹ vợ tương lai nên xin hai tháng để thử thách. Sau hai tháng nhịn ăn nhịn uống, rồi cũng quen dần.Bởi vậy anh chàng gầy đét như con mắm khô, chỉ thấy da bọc xương. Cho đến bây giờ, mặc dầu cô vợ yêu qúy đã chết vì một tai nạn xe cộ nhưng anh này vẫn giữ thói quen ăn uống như vậy. 

Con người ta ai rồi cũng sẽ trở về cát bụi. Nhớ bà Ngô Đình Nhu với hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi, đức hạnh và hết lòng vì quê hương đất nước. 
Nguyện cầu hương hồn bà an vui nơi cõi Hằng Sống.

__._,_.___

Posted by: <vneagle_1

Sunday, July 24, 2016

G I Ả T H I Ế T v à G I Ả T H U Y Ế T

G I Ả    T H I Ế T    v à    G I Ả    T H U Y Ế T
Trần Trung Chính
Tôi nghe đến 2 nhóm chữ Giả Thiết và Giả Thuyết trong khi vừa bước lên lớp đệ thất  (lớp 6 sau này) của bậc trung học : giáo sư dạy môn Toán đề cập đến “ Giả Thiết “ khi bắt đầu dạy đến 3 trường hợp bằng nhau của một tam giác. Trong khi đó trong môn Vạn Vật (science naturelle),” Giả Thuyết”  Laplace là giả thuyết đầu tiên được mọi người nhắc đến về sự thành lập của các tinh cầu (planete) trong hệ thống  Mặt Trời.

Theo từ điển tiếng Việt, có 2 định nghĩa của Giả Thiết :
Định nghĩa thứ nhất : điều cho trước trong một định lý hay một bài toán , để căn cứ vào đó mà suy ra một kết luận của định lý hay để giải một bài toán.
Định nghĩa thứ hai : điều coi như là có thật, nêu ra làm căn cứ để phân tích, để suy luận, để giả định. Thí dụ : loại bỏ những giả thiết thiếu căn cứ.-Giả thiết là tình hình sẽ xấu hơn.
Nhóm từ Giả Thuyết chỉ có một định nghĩa : điều nêu ra trong khoa học để giải thích một hiện tượng tự nhiên nào đó và tạm được chấp nhận, chưa được kiểm nghiệm, chưa được chứng minh.

Có nhiều người chỉ trích, phê phán và thậm chí chửi rủa cá nhân tướng Hoàng Cơ Minh và tố chức Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam (gọi tắt là Mặt Trận). Xét về tính chất bền bỉ và dai dẳng, cá nhân người viết nhận thấy chỉ có 4 người (theo thứ tự thời gian), đó là :
1) Bằng Phong Đặng Văn Âu , sang Mỹ từ tháng 4 / 1975 , cựu Thiếu Tá Không Quân
2) Kim Âu Hà Văn Sơn, sang Mỹ từ đầu thập niên 1990, cựu thông dịch viên trong tổ chức CIDG (Civil Irregular Defense Groups = Dân Sự  Chiến Đấu do LLĐB của Hoa Kỳ thành lập, thường được gọi là Biệt Kích Mỹ)
3) Lão Móc Nguyễn Thiếu Nhẫn, đây là bút danh của cựu đại úy quân báo Nguyễn Văn Nghiêm, sang Mỹ từ đầu thập niên 1980.
4) Nguyễn Thanh Tú, sinh năm 1965, con trai của cố ký giả Đạm Phong- người bị giết vào năm 1982 ở Texas, Nguyễn Thanh Tú tấn công vào Mặt Trận và Đảng Việt Tân dưới chiêu bài “vì chữ Hiếu, đi tìm công lý và sự thật cho cái chết của ký giả Đạm Phong”
Cả 4 người vừa nêu trên đã đưa ra trước công luận những  giả thiết :
Giả thiết số một : tướng Hoàng Cơ Minh lợi dụng lòng yêu nước và căm thù Cộng Sản của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đã quyên góp được một số tiền lớn và thành lập Mặt Trận ( tuy tất cả 4 người đều nói là số tiền lớn, nhưng không ai nêu được con số đích xác)
Giả thiết số hai : tướng Hoàng Cơ Minh mưu đồ tư lợi riêng nên đem thân nhân trong gia đình vào hàng ngũ lãnh đạo của Mặt Trận (nhất là kiểm soát các sự việc liên quan đến tài chánh ) và đẩy những người đã cộng tác lúc ban đầu ra khỏi tổ chức , thí dụ như Đại Tá Phạm Văn Liễu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy, nhà văn kiêm nhà báo Cao Thế Dung …
Giả thiết số ba : tướng Hoàng Cơ Minh và Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận không bao giờ công khai hóa số tiền thu được cũng như số tiền đã chi tiêu.
Giả thiết số bốn :  Lập chiến khu “ma” (video quay tại Hoa Kỳ nhưng nói là thành lập chiến khu tại biên thùy Thái Lan – Lào hay biên thùy Thái- Cambodia.
Giả thiết số năm : phóng đại số chiến binh tình nguyện gia nhập Mặt Trận, đồng nghĩa với tục ngữ “có ít xít ra nhiều ”, thí dụ Mặt Trận tuyên bố có khoảng 10,000 tay súng tại biên thùy Thái –  Lào chả hạn.
Giả thiết số sáu :  Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận tiếp tục lừa dối người Việt Hải Ngoại sau khi tướng Hoàng Minh đã chết hồi 1987 mà vẫn tiếp tục từ hải ngoại gửi thông điệp chúc Tết đồng bào Việt Nam trong cũng như ngoài nước.
Giả thiết số bẩy : đột nhiên vào mùa hè năm 2001, Ban Lãnh Đạo Mặt Trận làm Lễ Truy Điệu cho tướng Hoàng Cơ Minh và các kháng chiến quân đã hy sinh trên đường tìm về nước , mà không đưa ra bất cứ lời giải thích nào khiến cho đến nay (2016) vẫn chưa ai biết sự thật của sự dấu diếm tin tức.

Với  7 giả thiết vừa nêu, tôi nghĩ rằng trọng tâm của định đề (hay định lý) đã được ông Kim Âu Hà Văn Sơn - đanh thép  pha lẫn hùng hổ - kết án “Hoàng Cơ Minh là thiên cổ tội nhân” và ông Nguyễn Thanh Tú đã kết luận “ Mặt Trận đứng ra tổ chức ám sát ký giả Đạm Phong” rồi sau đó ông Tú còn đòi hỏi Ban Lãnh Đạo hiện nay của Đảng Việt Tân phải gánh lấy trách nhiệm về cái chết của cha ông ta .

Tôi sẽ không đưa bất cứ lời biện hộ nào cho 7 giả thiết vừa nêu trên vì tôi không phải là thành viên của Mặt Trận , vai trò biện hộ hay bào chữa cho những cáo buộc vừa nêu, phải do thành viên cao cấp của Mặt Trận tuyên cáo, nhưng chúng ta cũng cần để ý là phía Mặt Trận (hay Ban Lãnh Đạo của Đảng Việt Tân) không bao giờ đề cập đến các vấn đề nhậy cảm như vậy.

Tôi chỉ nêu ra một số giả thuyết liên quan đến 7 giả thiết vừa liệt kê để độc giả có thêm được những dữ kiện hầu tiến gần đến những sự thật đã diễn tiến hơn 30 năm trước, tôi nói tiến gần đến sự thật vì những cá nhân tham dự đã tàn lụi theo năm tháng vì tuổi tác và bệnh hoạn khiến chúng ta không thể tiếp xúc  để minh xác được bất cứ điều nghi ngờ  nào.

Giả thuyết thứ nhấttài chánh của Mặt Trận hoạt động không do người Việt Tỵ Nạn đóng góp . Tôi căn cứ vào thống kê để quyết chắc như vậy. Số người Việt ra đi vào cuối tháng 4/1975 được nhập vào Hoa Kỳ khoảng 180,000 người. 2 năm 1976 và 1977 hầu như không có ai vượt biển. Tới năm 1978, xảy ra vụ “nạn kiều” mới có chuyện “ra đi chính thức” và ra đi “bán chính thức” , những người tỵ nạn này phải đến cuối năm 1980 mới gia tăng nhiều, chính phủ Mỹ cho nhập cư vào Hoa Kỳ khoảng 1981 -1982. Do đó, khi thành lập Mặt Trận vào năm 1982 thì không thể có con số 01 triệu người trên toàn thế giới. Đã thế, lương căn bản chỉ có khoảng 2.50 dollars/ giờ thì làm gì có chuyện mỗi người góp 10 dollars cho tổ chức Kháng Chiến (với lại đâu phải cả một triệu người – nếu có -đều đi làm và có tiền đóng góp).

Tôi không tin rằng số tiền do người Việt Hải Ngoại  sẽ nằm trong account của ông Hoàng Cơ Định (hay của bất cứ người ẩn danh nào khác), lý do thật giản dị vì personal account của ông Định sẽ không mua được vũ khí đạn dược và quân trang quân dụng của các tay buôn lậu vũ khí có tầm vóc quốc tế !!!
Tôi cũng tin tưởng rằng nguồn tin nói rằng quỹ sinh hoạt của Mặt Trận do người Việt Tỵ Nan đóng góp là do chính Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận đưa ra với mục đích đánh lạc hướng những soi mói của các phần tử phản chiến của HK, của những ký giả cần lấy tin tức giật gân…nhằm che dấu nguồn gốc của số tiền đích thực mà Mặt Trận có được.

Giả thuyết thứ hai : Tướng Hoàng Cơ  Minh trở thành lãnh tụ của phong trào Kháng Chiến Chống Cộng Sản Việt Nam là do chính phủ của Tổng Thống Reagan đề cử .
Tổng Thống Jimmy Carter là một Tổng Thống quá hiền và yếu đuối, chính sách đối ngoại của ông đặt trên nền tảng “năn nỉ” cho nên ông chỉ tại vị được một nhiệm kỳ 4 năm (1976 – 1980). Dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan mới bắt đầu nhúc nhích chuyện “phản công”, cho nên tướng Hoàng Cơ Minh sinh sống bằng nghề thợ sơn,  suốt trong nhiệm kỳ của Jimmy Carter. Richard Armitage giữ một chức vị khá quan trọng trong cơ quan CIA, thừa lệnh của Tổng Thống Reagan mưu tìm thành lập tổ chức Kháng Chiến để phản công đánh lại khối Cộng Sản đang lấn chiếm khắp nơi. Khi Richard gặp tướng Hoàng Cơ Minh  bàn thảo chi tiết thực hiện, lúc đó tướng Hoàng Cơ Minh mới từ bỏ nghề thợ sơn, đứng ra thành lập cơ sở kháng chiến và chiêu mộ nhân sự. Trong địa vị nhân viên CIA cao cấp , Richard Armitage chắc chắn là đã có tiếp xúc  với nhiều người Việt Nam khác, nhưng do thâm tình quen biết , ông này chỉ “tin cậy” một mình tướng Hoàng Cơ Minh mà thôi.
Giả thuyết thứ ba : Dù nội các Ronald Reagan chủ chiến, nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ do Đảng Dân Chủ kiểm soát mọi việc chi tiêu của chính phủ nên Richard Armitage phải đi tìm nguồn tài chánh khác. Dựa trên cuộc điều trần của Trung Tá Oliver North trong vụ IRAN – CONTRA, tôi phỏng đoán là Richrad Armitage đã tìm được nguồn tài trợ khác để tướng Hoàng Cơ Minh có phương tiện hoạt động, đó là một nhà tỉ phú nào đó cho tướng Hoàng Cơ Minh mượn tiền nhưng phải trả lại vốn (có thể vì muốn giúp CIA của chính phủ Reagan nên người nhà giàu này không tính tiền lời). Chính việc phải trả lại tiền vốn cho vị “mạnh thường quân “ số tiền đó, nên tướng Minh chọn chuyên viên kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kế Hoạch trong Mặt Trận (điểm lại các anh hùng hảo hán đã tham gia Măt Trận từ 1981 – 1982, xem ra chỉ có một ông Nguyễn Xuân Nghĩa có kế hoạch kinh doanh và quản trị để điều hành Mặt Trận).

Ghi chú của người viết : Chính quyền Reagan bị quốc hội Hoa Kỳ đàn hạch về 2 tội, báo chí thường gọi là vụ án IRAN – CONTRA.
Về Iran : chính quyền Reagan bán vũ khí cho Iran khi có chiến tranh xảy ra giữa Iran và Iraq (luật của Quốc Hội làm ra cấm buôn bán với Iran sau khi Iran cầm giữ hơn 40 nhà ngoại giao Hoa Kỳ làm việc trong Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Teheran ) để coi như “ tiền chuộc” hơn 40 con tin đang bị cầm giữ.
Về CONTRA : phe Cộng Sản do Daniel Ortega cầm đầu dưới tên Sandinista cướp được chính quyền tại Nicaragua vào năm 1979. Chính quyền Reagan viện trợ tiền bạc và vũ khí cho phe chống Cộng có tên là Contra, quốc hội Mỹ không muốn hành pháp Mỹ dính líu đến chuyện này, nhưng điều tra thì thấy một bà già tỷ phú Mỹ cung cấp tiền bạc chứ không phải CIA (lâu quá nên tôi không nhớ tên). Bà già tỷ phú Mỹ tuyên bố thẳng thừng trước quốc hội Hoa Kỳ : “…chính bà ta cung cấp tiền bạc cho phe Contra vì không muốn Cộng Sản vào nước Mỹ qua ngả Trung Mỹ ”. Quốc hội Mỹ không có điều khoản luật lệ nào cấm một cá nhân cho tiền riêng của mình như vậy, nên sau đó cũng không đả động gì đến vấn đề này .

Từ trường hợp của nhóm Contra, tôi suy ra rằng Richard Armitage đã nhờ một tỷ phú nào đó cung cấp tài chánh cho tướng Hoàng Cơ Minh và Mặt Trận. Ký giả Đạm Phong tưởng rằng trong vai trò nhà báo, ông ta có thể phanh phui được những khuất tất của Mặt Trận. Ký giả Đạm Phong chỉ là nhà báo, không phải là người làm chính trị  hay nhân viên tình báo, ông ta không biết rằng làm như vậy thì ông ta bán được báo nhưng nhân vật tỷ phú đóng vai “mạnh thường quân “ cho tướng Hoàng Cơ Minh và Mặt Trận cảm thấy danh tiếng và công việc làm ăn của ông ta có thể bị nguy hiểm nên đã thuê mướn sát thủ đưa ký giả Đạm Phong đi tàu suốt.

Giả thuyết thứ tư : khi nhận được một số tiền lớn như vậy, tướng Hoàng Cơ Minh bắt buộc phải chọn người em ruột của mình là Tiến Sĩ Hoàng Cơ Định nắm giữ hầu bao mặc dù vào thời điểm 1981, các lãnh vực khác, ông Hoàng Cơ Định cũng không hơn gì các người danh tiếng khác.Đó là vì sự tin tưởng.

Cũng nên lưu ý rằng, đầu não của Mặt Trận tập trung về San José mà không phải là Nam California (có số người Việt đông hơn). Câu trả lời hợp lý nhất vì thập niên 1980, San José phát triển mạnh mẽ từ kỹ nghệ điện tử và computer nên nhân công dễ kiếm việc làm, đồng thời có tiền có vốn đem đầu tư vào nhà đất và thị trường chứng khoán thì sẽ mau kiếm lời. Có lẽ Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận đã đi trước thiên hạ về lãnh vực đầu tư này, nên đã dễ dàng trả số tiền vay mượn cho vị “mạnh thường quân” năm xưa. Như vậy sau khi trả nợ xong, những gì còn lại , trên mặt lý lẽ là của Mặt Trận.

Giả thuyết thứ năm : những cuộc Đông Tiến của Mặt Trận xuất phát từ Thái Lan xâm nhập vào lãnh địa nước Lào không phải là công việc đưa người và vũ khí vào trong nước Việt Nam để tổ chức gây bạo loạn lật đổ chính quyền Cộng Sản Việt Nam.

Những ai tin rằng Mặt Trận nếu có đem được vài ngàn người trở về Việt Nam thì sẽ tạo ra bạo loạn để lật đổ chính quyền Việt Cộng thì đó là suy nghĩ của những người quá ngây thơ và xem thường khả năng quân sự của quân đội CSVN. Trong chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953 , khi Kim Nhật Thành xua quân đội xâm lăng Nam Hàn, đuổi quân Nam Hàn của  Lý Thừa Vãn xuống tận phía cực Nam của bán đảo Triều Tiên chỉ còn khoảng 10 kilometer là ra biển. Để cứu nguy, tướng Mac Arthur đổ quân vào hải cảng Inchon cắt Hàn Quốc ra làm 2, quân Bắc Hàn phải ra đầu hàng khoảng 180,000 người. Vị trí địa lý của Inchon tương tự như thành phố Quy Nhơn – tỉnh Bình Định của Việt Nam ta, quân Cộng Sản Bắc Hàn bị thua trong cuộc đổ bộ này vì các tướng lãnh của Bắc Hàn và Trung Cộng chưa bao giờ có kinh nghiệm về hỏa lực của Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ cho Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Binh tiến chiếm mục tiêu trên đất liền . Vùng biên giới Thái – Lào mà tướng Hoàng Cơ Minh làm tuyến xuất phát,  quá xa tầm yểm trợ hỏa lực của Hải Quân Hoa Kỳ cũng như không được bất cứ sự yểm trợ nào của quân lực Thái Lan, như vậy tướng Hoàng Cơ Minh xâm nhập đất Lào để làm gì ?

Tình hình chính trị của Hoa Kỳ đang bị cái gọi là “hội chứng Việt Nam” , cho nên chính phủ Reagan bị trói tay về mặt ngân sách không thể mở bất cứ mặt trận vũ trang nào tại 3 nước Đông Dương Việt  - Miên – Lào. Tuy nhiên Hoa Kỳ thừa sức gây ra mặt trận “quấy rối” tại Đông Dương để buộc Cộng Sản VN phải duy trì một lực lượng quân sự lớn hầu giữ được các vùng vừa chiếm được (Việt Cộng gọi là “thành quả cách mạng” ).

Chúng ta thấy tại vùng biên giới Cambodia – Thái Lan, Hoa Kỳ qua trung gian của Thái Lan đã trợ giúp cánh quân sự của nhóm Sihanouk và nhóm hữu khuynh của tướng Som San, còn Trung Cộng thì trợ giúp phe Khmer Đỏ, sự quấy rối này làm cho Việt Cộng phải duy trì khoảng 200.000 quân sĩ tại lãnh thổ Cambodia. Ở miền Nam VN, tình báo của Pháp phối hợp với CIA trợ giúp nhóm Trần Văn Bá – Mai Văn Hạnh đổ bộ vào Cà Mau. Tuy ông Trần Văn Bá bị xử tử nhưng phe Bắc Việt đã loại hẳn phe tập kết và phe MTGPMNVN ra khỏi guồng máy chính quyền, đồng thời phải tuyển dụng và duy trì số lượng Công An rất lớn. 

Phía Lào thì không có sẵn những lực lượng chống Cộng như ở Cambodia và miền Nam VN, cho nên tướng Hoàng Cơ Minh và Mặt Trận phải đóng vai trò xâm nhập quấy rối : sự hiện hữu của các kháng chiến quân nhiều lần mở những cuộc hành quân Đông Tiến cũng làm cho Việt Cộng phải tăng thêm quân số cho vùng biên giới Thái – Lào, nếu cộng chung 2 nhóm binh lính VC trên lãnh địa của Lào, số quân có thể suýt soát 100,000 người.

Về mặt lâu dài, trong tình trạng không mấy khấm khá về mặt kinh tê, số quân trú phòng tại 3 vùng chiếm đóng vừa kể, sẽ là một gánh nặng mà Gorbachev gọi là “tình trạng xuất huyết nội của Liên Sô hồi 1990”. Thực tế cho thấy vào năm 1992, CSVN tuyên bố rút quân hoàn toàn tại Cambodia tuân theo Road Map mà Tổng Thống Bush đưa ra.

Giả thuyết thứ sáu : Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận không công bố cái chết của tướng Hoàng Cơ Minh vì vấn đề trốn thuế thừa kế.

Khi tôi còn ở VN, tôi đã đi xem phiên tòa xử các kháng chiến của MT bị bắt đồng thời với các hình ảnh chứng tỏ tướng Hoàng Cơ Minh đã bị giết tại vùng biên giới Lào. Nhiều người thắc mắc tại sao Mặt Trận không đề cử hay bầu ra một lãnh đạo mới ? Vấn đề này hoàn toàn tùy thuộc vào lãnh vự “thuế vụ”, trước khi Mặt Trạn chính thức sinh hoạt, tướng Hoàng Cơ Minh đã đứng ra apply và xin license hoạt động như một cơ sở business có sinh lời. Nếu chính thức điền khuyết hoặc thay thế tên của người lãnh đạo Mặt Trận, thì đương nhiên nhân vật mới này phải đóng thuế thừa kế cho chính phủ (tương tự như người cha qua đời, con trai hưởng quyền thừa kế căn nhà, muốn thành phố hay county cấp thẻ chủ quyền căn nhà, thì sở hữu chủ mới phải đóng thuế thừa kế, vì có income không do sức lao động nên tỷ lệ đóng thuế thừa kế thường là 60%)

Năm 1991, Mặt Trận bị District Attoney của Santa Clara County truy tố ra tòa về tội trốn thuế, ông Hoàng Cơ Định không bị hề hấn gì vì ông chỉ là người thừa hành của tướng Hoàng Cơ Minh (tướng Hoàng Cơ Minh là người đứng tên trên license hoạt động của Mặt Trận) . District Attorney lên Pentagone để sưu tra về số vốn mà Mặt Trận thủ đắc, nhưng Bộ Quốc Phòng trả lời là hồ sơ chưa được “giải mật” nên Tòa Án không thể mở ra xem được .District Attorney đạt giấy mời cựu Giám Đốc Trú Sứ của CIA tại vùng Đông Nam Á ra Tòa làm nhân chứng (ông này đã nghỉ hưu). Ông Trùm CIA tại ĐNA xác nhận có tuyên thệ là ông biết tướng Hoàng Cơ Minh đã tử nạn tại Lào từ 1987 (không có giấy khai tử, mà chỉ có báo cáo của nhân viên cấp dưới). Ngay sau đó, District Attorney tuyên bố case của tướng Hoàng Cơ Minh bị dismissed vì Tòa Án không thể truy tố người đã chết.

Giả thuyết thứ bảy : Năm 1992, ông Hoàng Cơ Định kiện báo chí (gồm các ông, Vũ Ngự Chiêu, Cao Thế Dung, , Nguyễn Thanh Hoàng báo VNTP…). Coi như ông Hoàng Cơ Định thua kiện, phe bên kia hí hửng reo vui (tôi không rõ ông Hoàng Cơ Định phải tốn bao nhiêu tiền đẻ bồi thường về mặt vật chất. Nhưng theo suy nghĩ chủ quan của tôi, ông Hoàng Cơ Định đã tung một mục tiêu giả để kéo dư luận không hướng vào chủ điểm “tiền của Mặt Trận từ đâu tới và sau khi tướng Hoàng Cơ Minh chết thì tiền sẽ đi về đâu ??

Giả thuyết thứ tám : năm 2001, Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận mới làm Lễ Truy Điệu cho Tướng Hoàng Cơ Minh và các Kháng Chiến Quân đã hy sinh trên đường xâm nhập về nước. Tuy không giải thích tại sao năm 2001 mới làm Lễ Truy Điệu, cá nhân tôi cho rằng Ban lãnh Đạo của Mặt Trận sợ bị  IRS audit. Mặc dù vào năm 1991, Tòa Án miễn truy tố một người đã chết, nhưng cơ quan Thuế Vụ có quyền audit trong vòng 10 năm sau khi cơ sở kinh doanh đóng cửa. Thời điểm năm 2001 là vượt hơn 10 năm (tính từ 1991) cho nên IRS không có tính cách pháp lý để mở lại hồ sơ thuế vụ. 

Đây chính là thời điểm thuận lợi để Ban Lãnh Đạo Mặt Trận chính thức công bố và thừa nhận tướng Hoàng Cơ Minh đã qua đời (ông Nguyễn Thiếu Nhẫn diễu cợt bằng câu nói “vắng mặt chuyển qua từ trần)

Những người đã nêu ra những giả thiết cũng là những người đơn phương đưa ra phán quyết xác định những định lý mà họ muốn mọi người đồng thuận.
Nhiều người Việt tại hải ngoại có lòng với đất nước cảm thấy không hài lòng với cách làm việc của Ban Lãnh Đạo của Mặt Trận vì họ thấy có sự chênh lệch giữa lý tưởng chống Cộng và hiện thực. Cá nhân người viết bài này chỉ đưa ra những giả thuyết mà không bênh vực hay phản đối bất kỳ một ai vì quyền quyết định thái độ ứng xử là hoàn toàn tùy thuộc người đọc.

Xin cảm ơn quý độc giả đã theo dõi toàn bộ bài viết này.
San José ngảy 3 tháng 7 năm 2016

Trần Trung Chính
.




TÂM SỰ CỦA MỘT TÙ BINH CHIẾN TRANH


  

From: Thomas D. Tran <
 Sent: Saturday, July 23, 2016 3:56 PM
Subject: Fwd: Fw: Ủy Ban Truy Tố Tội ác Đảng CS VN

Chuyển đọc và chuyển tiếp tối đa bài “Tâm Sự Của Một Tù Binh Chiến Tranh” do Thiếu Tá Phan Văn Phước viết. Khi bị bắt chỉ là thiếu úy Đai Đội Trưởng ĐĐ 956 ĐPQ thuộc TK Thừa Thiên kiêm Trưởng căn cứ Lương Mai thuộc quận Phong Điền giáp ranh tỉnh Quảng Trị.
Tôi nghĩ rằng sau khi được Trung Đòan X Việt Cộng phóng thích sau khoảng 3 năm giam cầm, thiếu uý Phan văn Phước đã tái ngũ và đã tuần tự được thăng lên cấp Thiếu Tá khi biến cố 30/4/1975 xẩy ra. Tôi viết chi tiết có dấu chấm trên chữ I và có gạch ngang trên chữ t để tránh ngộ nhận và xuyên tạc.
Tôi rất cám ơn Thiếu Tá Phước đã viết ra nhiều điều vô hình chung Xác Nhận những gì tôi đã viết trên diễn đàn đặc biệt là nghệ thuật lợi dụng khai thác những người chẳng may lọt vào tay cộng sản: Chúng thả ra đấy nhưng giao công tác và nắm trong tay những bằng chứng như quay phim, chụp ảnh, thu hình, thu tiếng khiến cho KHÔNG Dám phản bội chúng. Điều này chứng tỏ những gì tôi đã đọc qua tài liệu tịch thu của cs và đã thưa quý vị là đúng. Một cựu công chức VNCH làm việc ở cơ quan quan trọng, có thân nhân còn ở VN, khi về thăm VN thì Không thể nào tránh bị cs giao công tác. Tôi muốn viết nhiều về bài viết của Thiếu Tá Phước nhưng rất tiếc là máy computer viết quá chậm, và cũng không muốn “dẵm chân” lên tác giả khiến bài viết bị “loãng”.
Tôi sẽ là người rất tệ bạc, vô ơn nếu không có đôi lời cảm ơn Thiếu Tá Phan Văn Phước khi “kính nể tôi qua các emails về mọi mặt trên diễn đàn”.Câu viết đơn sơ của Thiếu Tá Đã Vô Hiệu Hóa những lời chụp mũ tôi là cộng sản nằm vùng, là thi hành NQ 36 của cs, là Giặc cờ vàng,là đội l.. .. khi tôi gọi chúng là bọn lưu manh, đá cá lăn dưa, cặn bã xã hội. Chúng Không Đáng cho tôi ra lời kể cả kẻ chống lưng cho chúng nếu có. Xin Thiếu Tá Phước nhận lời cảm ơn chân thành của tôi.
Mong quý vị chuyển tiếp tối đa bài viết của Th/Tá Phan Văn Phước này vì tôi vẫn bị giới hạn chuyển tới nhiều địa chỉ. Đa tạ
TDT

From: phuoc phan <
Date: 2016-07-23 7:49 GMT-05:00
Subject: Fw: Ủy Ban Truy Tố Tội ác Đảng CS VN
To: Thường Trần Doãn <>, Phuoc Phan <>


Kính thưa Đại Tá Trần Doãn Thường,

Vì lòng kính nể Đại Tá qua các Email của Đại Tá về mọi mặt, trên diễn đàn, nay em kính chuyển đến Đại Tá, Đại Niên Trưởng của em, bài viết  TÂM SỰ CỦA MỘT TÙ BINH CHIẾN TRANH để kính tường. Kính đề nghị Đại Tá bỏ chút thì giờ đọc để chia sẻ cùng em út. Thành thật đa tạ Đại Tá. Kính cầu chúc Đại Tá nhiều sức khỏe cùng quý quyến  gặp mọi điều an bình và hạnh phúc. 

Thân Kính.

Em Phan Văn Phước. 


                          clip_image002

             Orange County, California.USA. Ngày 7/7/2016

XIN QUÝ ĐỒNG BÀO VÀ QUÝ CHIẾN HỮU ĐỌC THIÊN HÔI KÝ CỦA CỰU THIẾU TÁ PHAN VĂN PHƯỚC, ĐỂ:
-THẤY SỰ HY SINH CAO CẢ CỦA NGƯỜI LÍNH VNVH CHO TỔ QUỐC, CHO QUÊ HUONG, CHO ĐỒNG BÀO VIỆT NAM MẾN YÊU.
-ĐỂ TỐ CÁO TỘI ÁC CHIẾN TRANH VÀ TỘI ÁC DIỆT CHỦNG CỦA ĐẢNG CỌNG SẢN VIỆT NAM TRƯỚC CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ.

TRÂN TRỌNG
LIÊN THÀNH
TRUNG TÂM TRƯỞNG
TRUNG TÂM ĐIỀU HÀNH UBTTTADCSVN

                                            __________

LỜI MỞ ĐẦU
CỦA THIẾU TÁ PHAN VĂN PHƯỚC
NGUYÊN THIẾU TÁ TIỂU  ĐOÀN TRƯỞNG,TIỂU ĐOÀN THANH LONG 530/ĐP/BIẬP.
TIỂU KHU KIÊN GIANG, QUÂN KHU 4.VÙNG IV CHIẾN THẬT.
                                 ________


Dưới đây là hồi ký của một người “Tù Binh Chiến Tranh” bị giam cầm trong vùng rừng núi Hạ Lào, ở vào thời kỳ chiến tranh VN bắt đầu cao điểm từ năm 1965, 1966 và  1967.  Chúng tôi xin ghi lại đây những hình ảnh đau thương, những kỷ niệm kinh hoàng, khiếp đảm cùng những thương tích vẫn còn hằn sâu trên cơ thể. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xin gởi gấm tâm sự của mình xuyên qua những bài học tập chính trị và những lời xác nhận của các Cán bộ cao cấp của đảng CSVN và qua đó, quý vị sẽ thấy được những sự thật phũ phàng, vô cùng đau lòng, cùng những điều bí mật ít tai biết, do chính Cán bộ cao cấp của CSVN xác nhận. Thế mà trong hơn 5, 6 chục năm qua, biết bao học giả trí thức “giác ngộ CM”, các chính trị gia xôi thịt thuộc thành phần thứ ba, các vị lãnh đạo tinh thần“tiến bộ” cứ chối cãi quanh co để chạy tội hoặc nhiều khi họ lại còn đổ lỗi, kết tội cho những người vô tội phải bị tù oan! Bài viết hơi dài vì có nhiều đoạn liên hệ với nhau, mỗi đọan là một câu chuyện có đầy đủ hỷ nộ ái ố, có nhiều đoạn cho thấy những bí mật chưa  ai biết! Những điều tôi trình bày là tất cả sự thật, không hư cấu, nên có thể làm phiền lòng ai đó. Kính mong quý vị thông cảm vì đây là sự thật!

Chúng tôi hy vọng sẽ không làm mất thì giờ của quý vị. Kính mời quý vị đọc để cảm thông và cùng chia sẻ trong ngậm ngùi một thời đất nước MNVN tươi đẹp lại bị nhiễu nhương trong điên loạn để đưa đến ngày mắt nước 30.04.75!
                                           
Trân trọng.

Phan Văn Phước. Khóa 13/SQTBTĐ. 

             TÂM SỰ CỦA MỘT TÙ BINH CHIẾN TRANH

Trung Đoàn X CSBV do Trung tá Hiệu làm Thủ Trưởng và Thiếu tá Ngọ làm Cán bộ chính trị kiêm Bí thư TrĐ. Một Trung đội cảnh vệ đóng ở lưng chừng đồi do Thượng sĩ Mưu chỉ huy để giữ an ninh mặt tiền của BCH/TrĐ đóng ở trên đồi. Cạnh bờ suối là nhà bếp do Cán bộ Sinh cùng 6 anh nuôi đảm trách. Trại có chừng trên dưới 100 quân để giữ an ninh và phòng thủ BCH/TrĐ. Toàn thể cán bộ và bộ đội cùng các đơn vị trực thuộc đóng quân bao trùm một vùng rộng lớn trong vùng rừng núi Hạ Lào, họ sống trong những ngày lao động sản xuất, học tập chính trị và hành quân bình thường mỗi ngày như mọi ngày.

Ngoài số cán bộ và bộ đội cơ hữu kể trên, còn có mộtTù Binh Chiến Tranh đó là Thiếu Úy Phan Văn Phước nguyên Đại Đội Trưởng ĐĐ 956/ĐPQ thuộc TK Thừa Thiên kiêm Trưởng căn cứ Lương Mai thuộc quận Phong Điền giáp ranh tỉnh Quảng Trị.  Kể từ đêm 12.12.1965, căn cứ Lương Mai bị cộng quân vây hãm và bị pháo kích liên hồi vô cùng nghiêm trọng. Ngay từ giờ phút đầu tiên, đơn vị đi tiền đồn đã chạm địch, nhưng vì gặp phải lực lượng địch quá đông và hỏa lực hùng hậu nên đơn vị đã bị tổn thất. Tôi liền cho lệnh đơn vị rút lui, trở về căn cứ theo lộ trình đã ấn định. Mục đích để săn sóc các binh sĩ bị thương và tăng cường quân số phòng thủ. Chúng tôi đã nhiều lần xin phi pháo yểm trợ để giải tỏa áp lực địch, nhưng gặp thời tiết xấu, mưa to gió lớn của xứ Huế, mây mù bao phủ, trần mây quá thấp, nên việc yểm trợ của phi pháo vô cùng trở ngại và rất hạn chế. Có một lần, 2 phi tuần F105 của Mỹ từ căn cứ Đà Nẵng bay ra đánh bom yểm trợ, nhưng qua trung gian hướng dẫn mục tiêu của Cố Vấn Mỹ ở TT Hành Quân của TK/TT, nên phi tuần đầu tiên đã đánh bom trật mục tiêu, làm hư hại nặng hệ thống phòng thủ, nhưng rất may không gây tử thương, chỉ có 4 binh sĩ bị thương. Riêng phi tuần thứ hai đã bay vòng hai lần nhưng không nhìn rõ mục tiêu vì mây mù bao phủ và trần mây quá thấp, nên đã đem bom thả biển, thế là xong! Đơn vị chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu vừa tu bổ hệ thống phòng thủ trong tình huống vô cùng khó khăn vì địch quân pháo kích liên hồi và rất cô đơn vì không có đơn vị tăng viện, trong khi đạn dược chẳng còn bao nhiêu. Nhưng lệnh tử thủ thì vẫn cứ duy trì, không cho chúng tôi rút lui để bảo toàn lực lượng, vì đây là cứ điểm vô cùng quan trọng, ngoài ra TT/HQ của BCH/TK còn hứa sẽ có lực lượng để giải tỏa áp lực địch vào sáng ngày mai. Ngày mai, một ngày mai không bao giờ đến! Vì đêm nay 20 rạng 21 tháng 12 năm 1965, vào lúc 03 giờ sang, VC dùng chiến thuật tiền pháo hậu xung, sau những đợt pháo kích hạng nặng kinh hoàng, hầm truyền tin chỉ huy bị sập gần hết và tôi đã bị trọng thương bất tỉnh trong hầm chỉ huy...

Bất giác, tôi mở mắt ra bởi cái lạnh kỳ lạ đang xâm chiếm toàn thân và một ánh đèn pin cực mạnh đang chiếu thẳng vào mắt tôi, mở mắt tôi thấy lờ mờ 4, 5 tên bộ đội đang đứng vây quanh tôi, nạt nộ om sòm, đồng thời tôi nhận ra hai tay mình đã bị trói, mặc dầu cánh tay trên bên phải như đang bị gãy và đầu đã bị thương.Chúng để tôi nằm dưới đất, bên cạnh cái giếng và dùng gàu múc nước giếng trong mùa đông giá rét 2,3 độ, tạt mạnh khắp người tôi nhiều lần, cho đến khi tôi tỉnh lại, vì bị chấn động bởi cái  lạnh bất ngờ, nên toàn thân người tôi run rẩy liên hồi và miệng tôi đánh bò cạp không ngừng, rồi tôi lại thiếp đi hồi nào không rõ, vì các vết thương ở tay và đầu làm tôi kiệt sức. Thế là cuộc đời tù binh bắt đầu từ đó, chẳng khác nào một giấc mơ buồn!

Tôi là người tù cô đơn, độc nhất vô nhị trong trại tù nầy vì tôi lao động một mình và học tập chính trị cũng một mình với CB Hiệu hay CB Ngọ, học tập thì không có bút, giấy để ghi, chỉ ngồi lắng tai nghe nhưng phải ghi nhớ đầy đủ và chính xác, nếu không sẽ bị "cắt cơm!".Như trường hợp, có một lần, theo bài học: "Tổng kết 6 tháng đầu năm, quân và dân ta đã tiêu diệt 7 B52, 16 F105 và F5, 42 xe bọc thép,  127 tù binh Mỹ Ngụy và bắt sống 23 giặc lái Mỹ." Một tuần sau, đến phiên tôi trả bài, làm sao tôi có thể trả lời đầy đủ chính xác những con số trên, vì trong lúc học tập thì không được ghi chú; nên tôi đã trả lời không đúng và đôi khi số lượng còn thấp hơn so với bài học! Thế là tôi bị“cắt cơm” 3 ngày; một danh từ rất đơn giản nhưng vô cùng kinh hoàng, vì cái đói dày vò, hành hạ cơ thể, nhiều đêm không ngủ được! Rút kinh nghiệm lần sau, tôi yêu cầu CB đọc lại những con số 2, 3 lần, vì tôi kém trí nhớ; đến khi trả bài, để cho dễ nhớ, tôi đã trả lời“tròn số lượng”. Nghĩa là nếu bài học là 7 xe tăng bị cháy, tôi trả lời 10 xe bị cháy, 3 máy bay bị bắn rơi, tôi trả lời 5 máy bay bị bắn, 56 tù binh Mỹ Ngụy, thành 60 tù binh Mỹ Ngụy; thế là tôi được CB Hiệu và CB Ngọ khen học tập có tiến bộ và đôi, ba lần như thế, thì tôi được thưởng một củ khoai. Đây quả là lối học tập nhồi sọ hạ cấp, đày dọa con người bằng cái đói khổ! Bắt con người nói láo giống như con một vẹt để được một củ khoai!!

Sau nầy, qua học tập chính trị, tôi được biết, để kỷ niệm lần thứ 5 ngày thành lập MTDTGPMN  20.12.1960, Cộng quân không chỉ phải tấn công dứt điểm căn cứ Lương Mai do tôi chỉ huy bằng mọi giá, vì căn cứ nầy nằm trên yết hầu để ngăn chận đường xâm nhập tiến quân của chúng từ biên giới Lào Việt xuống các tỉnh khu Trị Thiên Huế, mà chúng còn đánh phá đồng loạt khắp mọi nơi hầu tiêu hao và cầm chân các đơn vị của Ta không cho tiếp viện lẫn nhau.
Ngoài ra vào cuối năm 1966, để kỷ niệm lần thứ 6 ngày thành lập MTGPMN, CB Hiệu, Trung tá Thủ trưởngcòn đọc một số tài liệu để giải thích lý do và thời điểm đã thành lập MTDTGPMN và bắt tôi phải học thuộc như sau: “Trong những năm đầu dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Cách Mạng đã biết được có rất nhiều nhà trí thức, nhân sĩ của MNVN bất mãn vì không được trọng dụng hay vì tranh giành quyền lực trong guồng máy Ngụy Quyền không thành công, nên đã bát mãn với chế độ Ngô Đình Diệm. Do đó Đảng và Nhà Nước ta đã chỉ thị cho các Cán Bộ cơ sở hạ tầng của ta đang hoạt động khắp các nội thành MNVN phải móc nối, thuyết phục bọn họ trở về với CM sẽ được trọng dụng qua những chánh sách đãi ngộ xứng đáng của CM, đồng thời tìm mọi cách đưa bọn họ rời thành vào bưng theo CM như L/s Nguyễn Hữu Thọ.v...v..Thêm vào đó, có rất nhiều cấp chỉ huy của Quân Đội Ngụy như anh Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Phạm Ngọc Thảo vì bất đồng quan điểm chính trị đảng phái, có người vì bị thất sủng nên đã chống đối chế độ NĐDiệm, họ đã đứng ra lãnh đạo một số binh lính ngụy làm một cuộc binh biến vào ngày 11.11.1960 nhưng bất thành. Sau đó anh ĐT NCThi đã bay qua Cambodge ẩn trốn dưới sự che chở của CM và đã được CM quan tâm chiếu cố đãi ngộ xứng đáng. Nên đến năm 1963, sau khi toàn dân MN lật đổ chế độ NĐDiệm thì anh ĐT NCThi đã trở về nước và đã hoạt động theo CM rồi lần lược thăng cấp lên đến Trung Tướng chỉ huy QĐI, lãnh đạo nhiều đơn vị quân đội ly khai để lập Miền Trung Tự Trị, vào những tháng 6, 7, 8, 9,10 năm 1966, nhưng vì thiếu quyết tâm nên cũng bất thành! Nhưng dầu sao hành động của anh Trung tướng NCThi cũng đã tạo những bước thuận tiện cho công cuộc giải phóng đất nước.”

“Ngay sau khi cuộc binh biến 11.11.1960 của anh ĐT NCThi bất thành, Đảng và nhà nước ta vô cùng sáng suốt nhận định là đại đa số đồng bào và quân đội ngụy ở MNVN đã bất mãn và nhất tề đứng dậy đòi lật đổ chế độ NĐDiệm.
Cuộc binh biến bất thành ngày 11.11.1960 của anh ĐT NCThi là thời cơ thuận tiện để Đảng và Nhà Nước ta thành lập MTDTGPMN do L/s Nguyễn hữu Thọ làm Chủ Tịch MT và bà Nguyễn thị Định làm Tư lệnh các lực lượng võ trang giải phóng, để tạo chính nghĩa trong và ngoài nước và làm thành một lực lượng hùng mạnh có tổ chức nhằm hổ trợ chính trị lẫn quân sự cho đồng bào Miền Nam VN tiếp tục công cuộc chống Mỹ cứu nước và giải phóng quê hương. MTGPMN thành lập đúng 1 tháng 9 ngày sau cuộc đảo binh biến bất thành của anh ĐT NCThi.”   Như vậy Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có phải là cảm tình viên, là ân nhân hay là anh hùng của cách mạng? Vì ông đã hai lần làm lợi cho CS và MTGPMN, lần thứ nhất làm cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 bất thành, lần thứ hai dùng binh lính của Quân Đoàn I để theo Phật Giáo đòi lập Miền Trung tự trị, chia hai đất nước của Miền Nam VN, đã tạo những bước đột phá ban đầu để tiếp tay cho việc mất nước vào ngày 30.04.75?

Sau đó CB Ngọ bắt tôi phải học thuộc nhiều bài ca của MTGPMN và bắt tôi đơn ca mỗi khi lên lớp học tập chính trị, nếu bài nào không thuộc sẽ bị “cắt cơm!”  Chính vì thế mà đến nay, tôi vẫn còn nhớ nhớ một phần: “Quê hương ta Nam Việt Nam sôi sục căm...hờn. Bao đau thương giục lòng ta hãy đòi nợ máu. Nông thôn hãy vùng lên, trí thức ta cùng tiến. Biển động sóng dậy như thủy triều đang dâng cao.  Một ngày mai...” hay “Giải phóng Miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước.v...v.”

Là một thanh niên sống có lý tưởng, lòng đầy nhiệt huyết, yêu thích đời Lính nên tôi đã tình nguyện gia nhập Quân Đội VNCH ở tuổi 19, để bảo vệ quê hương và dân tộc, nhưng rủi thay tôi đã bị bắt làm tù binh. Hôm nay xuyên qua học tập với những bài kích động dồn dập lòng yêu nước và tình yêu thương đồng bào với những lời lẽ thiết tha cùng những bài viết đầy cảm xúc ca ngợi lòng yêu nước, tình đồng bào dưới ngọn cờ CM của hai nhà văn mà tôi rất yêu thích, đó là nhà văn Thanh Tịnh “Ngày Tựu Trường” của ngày xưa và ngày nay “Giòng Sông Hương Là tinh thần Của Cuộc CM Miền Trung Tự Trị” cùng nhà văn thơ Xuân Diệu “Giao Lại Tuổi Xuân” của ngày xưa và ngày nay (quên tên) đã xoáy động tâm tư tình cảm của tôi, nên nhiều khi tôi đã quên thân phận mình là một tù binh chiến tranh và một đôi khi tôi đã hòa nhập với lòng rộn ràng sôi sục căm thù hòa theo bao lời ca điệu nhạc của các bản hùng ca của MTGPMN!...Nhưng sau đó, qua nhiều đêm nằm suy đi gẫm lại, tôi lần theo dấu thời gian và dựa vào các yếu tố của dữ kiện, tôi vô cùng thắc mắc và tự hỏi:

Ngày thành lập MTGPMN 20.12.1960 là thời điểm chưa có bất kỳ một bóng dáng giặc Mỹ xâm lược nào trên toàn cỏi MNVN.  Mà chỉ có vài ba trăm Cố Vấn Mỹ đến giúp VN phát triển và xây dựng đất nước theo mô hình của các nước tự do, tiến bộ trên thế giới. Cũng giống như tại Miền Bắc CS đã có hằng trăm, hằng ngàn cố vấn Nga, Tầu giúp Miền Bắc tiến Lên XHCH. Điều đó đâu có gì là sai trái, vì mỗi Miền Nam, Bắc đều có quyền tự do lựa chọn chánh thể chính trị riêng của mình. Trong lúc đó là chưa kể đến hơn 320,000 quân của Tầu Cộng đã qua giúp MBVN đế đảng CSBV rảnh tay tiến hành cuộc xâm lăng MNVN”. (theo tài liệu của TQ vừa mới phổ biến để kể công với CSVN)

Tôi xin hỏi MTGPMN thành lập để kêu gọi, vận động đồng bào Miền Nam VN sôi sục căm hờn ai và hô hào, xúi giục đồng bào Miền Nam hãy đòi nợ máu với ai, khi toàn cỏi MNVN không có bóng dáng một người lính tác chiến Mỹ nào?  Trong lúc đó, đồng bào MNVN đang sống trong cảnh thanh bình và thịnh trị, gồm những người dân hiền lành, lương thiện đang cần cù để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc và chưa bao giờ gây nợ máu với với ai.Chính trong thời điểm nầy, những Cán bộ Cộng sản nằm vùng được Việt Minh cài lại tại MNVN sau ngày 20. 07.1954 chia đôi đất nước,  phối hợp  cùng những anh du kích VC ở địa phương là con, em hay bà con thân thuộc của những Cán bộ đi tập kết ở Miền Bắc vừa mới trưởng thành. Ban ngày họ trốn trong các hầm bí mật ở bờ ruộng, ngoài bụi tre, dưới gậm giường, trong chuồng trâu hay dưới chuồng bò;  Rồi đêm đêm họ lại hiện về như những bóng ma trong những bộ bà ba đen, đầu đội nón tai bèo, chân mang dép râu tay cầm súng trường Nga, Tầu hay Nội Hóa để đi thâu thuế, thu lúa, xin lương thực. Nều người dân nào không cho hay chống đối thì bị giết ở đầu đình hay bị chặt đầu giữa chợ với những bảng cáo trạng: “Đây là thành phần phản động, chúng phải bị đền tội”được viêt bằng máu của nạn nhân vô tội và treo trước ngực của những thi thể không đầu! Đây là hành động khủng bố lương dân vô tội  vô cùng man rợ, ai thấy đều phải rùng mình ớn gáy! Nhiều khi họ về bắt thanh niên nam nữ lên rừng huấn luyện 1, 2 tháng để trở thành bộ đội, rồi họ lại trở về gây chết chóc đau thương cho dân lành. Trên đây là những điều chính mắt tôi thấy tại chợ Hà Trung, Hà Trữ thuộc quận Vinh Lộc, khi tôi còn là một cậu học sinh 15,16 tuổi cùng theo anh Hồ Trung, người bạn học ở trọ trong nhà tôi, về quê nghỉ hè. Và ngay cả sau nầy, khi tôi là một Sĩ quan tác chiến, tôi cũng chứng kiến những cảnh tương tự trong các cuộc hành quân bình định hay lùng và diệt địch phối hợp với Đại Đội Hắc Báo/SĐI do Đ/u Phạm Văn Đính chỉ huy vào năm 1964 tại chợ Đồng Di, Tây Hồ thuộc quận Phú Vang giáp ranh quận Hương Thủy,nơi có hằng trăm hố chôn người tập thể trong vụ thảm sát Mậu Thân 68, hay tôi cũng được nghe chính những gia đình nạn nhân vô tội kể lại.

Vậy ai là người phải sôi sục căm hờn?  Và ai là người giục lòng ta hãy đòi nợ máu? Phải chăng ăn xuôi nói ngược hay ăn ngược nói xuôi, bắt râu cha nọ, đặt cằm mẹ kia hay ngụy tạo để tuyên truyên xuyên tạc sự thật, đánh lừa đồng bào là sở trường muôn thuở của MTGPMN và của người Cộng Sản VN?

Những bài ca tiêu biểu cho MTDTGPMN đều chứa đầy sắt máu, rờn rợn, thật đáng sợ! Những bài ca, những lời tuyên truyền đầy xảo trá điêu ngoa để kích động lòng căm thù, xúi dục giết người để đòi nợ máu! Những bài ca, những lời tuyên truyền đầy lừa bịp để kích động tình đồng bào và lòng yêu nước, đã đánh lừa được những kẻ trí thức khoa bảng, những chính trị gia xôi thịt thuộc thành phần thứ 3, những vị lãnh đạo tinh thần đã tiếp tay cho VC để gây nên cảnh chiến tranh tương tàn Người Việt Giết Người Việt trong 21 năm qua, với bao cảnh máu đổ thịt rơi, bao gia đình ly tán! 

Mãi sau khi MTGPMN thành lập được 5 năm, theo tài liệu học tập: “MTGPMN từ không đến có, từ có đến phát triển vững mạnh và tạo nhiều thắng lợi to lớn và tung hoành trên khắp các chiến trường Miền Nam VN.” Thì sau đó, người lính tác chiến Mỹ đầu tiên mới đặt chân lên cảng Đà Nẵng vào Tháng 5 Năm 1965 để bảo vệ cuộc sống an lành của đông bào Miền Nam và ngăn chận cuộc xâm lăng của CSBV trong mưu đồ nhuộm đỏ MNVN.

Xuyên qua các tài liệu học tập với sự xác nhận của các Cán bộ CS cấp cao thì rõ ràng MTGPMN là tay sai của CSBV. Vì sau ngày 30. 04.1975, MTGPMN đã tan biến thành không khí vì không còn cần thiết nữa và L/s Nguyễn Hửu Thọ Chủ tịch và bà Nguyễn Thị Định TL các LLVTGP đã trở thành những người nộm để đuổi chim bên bờ ruộng. Chính MTGPMN hay CSBV đã gây nợ máu với đồng bào Miền Nam nói riêng và toàn cõi đất nước VN nói chung và đã làm cho gần 6 triệu thanh niên nam nữ của hai miền Nam Bắc phải hy sinh tuổi thanh xuân một cách oan uổng và hằng vạn vạn thương binh đang sống trong đau khổ vì nghèo đói bệnh tật!” 

Có một điêu vô cùng kỳ lạ đã làm cho tôi luôn thắc mắc và tự nghĩ là trong tất cả mỗi lần học tập, hay nghe đài Giải phóng là CB Hiệu /Ngộ đều hết lời kể tội và nguyền rủa vô cùng thậm tệ cố TT Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, mặc dù hai vị đã bị thảm sát cách đây 3, 4 năm; Chỉ vì một lý do duy nhất là ông NĐDiệm đối thủ cực kỳ lợi hại của HCMinh và ông NĐNhu là người đã lập Quốc Sách  Chiến Lược: “Mồ ma thằng Diệm, Mồ ma thằng Nhu là hai kẻ thù số một của nhân dân ta vì đã rước Đế Quốc Mỹ vào giày xéo quê hương và giết hại đồng bào ta. Chúng nó là  hai tên đại tội đồ của dân tộc VN vì đã lập ra hàng rào Ấp Chiến Lược, một hàng rào rộng lớn bao trùm khắp MNVN để giam giữ đồng bào ta và ngăn cách CM với nhân dân. Nếu Ấp Chiến Lược còn thì Cách mạng đã chết ngay từ trong trứng nước! Vì ACL đã ngăn cách tình cảm và tách rời nhân dân với CM nên CM không còn chỗ tựa để được tiếp tế lương thực như trước, nên vô cùng khốn đốn, rất đói khổ. Chính trong thời điểm nầy, bọn Ngụy Quân, Ngụy Quyền thường tuyên truyền để chê bai và chế riễu CM bằng những hình vẽ ba anh bộ đội thân hình ốm teo, mặt mày xơ xác cùng đeo một cành đu đủ không gãy! Đồng thời ACL đã ngăn chặn nhân dân ta không còn cơ hội để che chở cho CM, nên rất nhiều CB đã bị sát hại và CM phải chịu tổn thất nặng nề, nên các lực lượng võ trang Giải Phóng của ta phải phân tán vào các an toàn khu để chờ lệnh. Dưới sự lãnh đạo tài ba và vô cùng sáng suốt của đảng ta, liền cài nhiều CB của MTGPMN để thành lập và đẩy mạnh các phong trào đấu tranh nhân dân, ngay trong lòng địch như phong trào đấu tranh của  sinh viên học sinh bãi khóa, lao đông thợ thuyền, tiểu thương đình công bãi thị, đặc biệt là phong trào đấu tranh của Phật Giáo dưới sự lãnh đạo của các ông Tăng, ông Thầy tiến bộ, rất nhiệt tình với CM cộng với toàn thể các gia đình Phật tử là một tổ chức có quy củ, quy mô rộng lớn có đến 80% dân số  VN là Phật tử, nên vô cùng hùng mạnh; Đồng thời CM đã gởi nhiều CB vào ngay tận sào huyệt đầu nào của Ngụy quân, Ngụy quyền để bắt tay với một số Tướng lãnh và quan chức Ngụy bất mãn, tham tiền để cùng toàn dân nhất tề đứng dậy làm cuộc binh biến ngày 01.11.1963 đã lật đổ chế độ độc tài gia đình trị NĐDiệm và đập đổ cái gọi là Quốc Sách ACL để giải phóng đồng bào thoát cảnh bị giam cầm, kềm kẹp.  Cuộc binh biến thành công là thành quả tuyệt vời của CM và của  Nhân dân ta. Kể từ đó, CM đã sống lại và  tiếp tục cuộc hành trình CM chống Mỹ cứu nước và ngày càng lớn mạnh như ngày nay.”  Dựa trên các tài liệu có giá trị cao của quốc nội lẫn quốc ngoại và căn cứ vào thực tế thì chính TT NĐDiệm và ông NĐNhu đã cương quyết chống đối sự hiện diện của quân đội Mỹ tại MNVN. Chính vì sự cương quyết chống đối nầy, mà hai anh em TT NĐDiệm phải nhận lãnh hai cái chết vô cùng đau thương bởi một số Tướng lãnh bất nghĩa, bất nhân vì tham tiền! Tôi có cảm tưởng đảng CSVN gặp phải TT NĐDIệm chẳng khác nào đỉa phải vôi nên họ rất lo sợ! Do đó cái điệp khúc kết tội và nguyền rủa Cố TT NĐ DIệm cứ được CB Hiệu/Ngọ kể cả Bộ đội lập đi lập lại hằng trăm, trăm lần như kinh nhật tụng! Đồng thời họ còn bắt tôi phải học thuộc nếu không thì bị “cắt cơm”, nên tôi vẫn còn nhớ ràng mạch như trên đến ngày hôm nay. Theo lời các CB cao cấp của CSBV đã xác nhận Quốc Sách Ấp Chiến Lược là một chướng ngại vật Thiên la Địa võng đã gây bao trở ngại vô cùng to lớn, tạo muôn vàn khốn đốn đối với MTGPMN, thật khó lòng chống đỡ và đang trên đà bị tiêu diệt. Kế hoạch lập ACL đối với MTGPMN chẳng khác nào là loại thuốc trừ sâu cực mạnh, là loại thuốc “DDT tăng cường” đối với các loài sâu bọ, côn trùng đang phá hoại mùa màng xanh tươi của đồng bào MNVN! Vậy những kẻ nhẫn tâm đã sát hại tàn nhẫn hai anh em Cố TT NĐDiệm và những kẻ đã ra lệnh dẹp bỏ, đạp phá Ấp Chiến Lược. Họ là ai? 

Lâu ngày rồi cũng quen và tôi đã quen với cái không khí yên tĩnh của chốn núi rừng thanh vắng; Tôi quen với tiêu chuẩn đói khổ của ‘cách mạng’ dành cho tù binh với khẩu hiệu không được kêu ca: “Đó là sắn khô, khoai khô nấu thành cơm hay sắn tươi mài nấu thành cơm, vài ba lễ lớn trong năm thì mới có gạo nấu cơm; đồ ăn toàn là nước muối chấm rau tàu bay luộc, củ chuối luộc.hay Môn Thục (môn rừng) nấu canh với muối.v...v.Tiêu chuẩn ngày hai bữa ăn, mỗi bữa chỉ hơn một chén sắn hay khoai hoặc cơm!” Vì hoàn cảnh khó khăn của cach mạng! Tôi vui với hoa cỏ bốn mùa, chim chóc, bướm và những đàn kiến thông minh là những người bạn thân yêu hằng ngày của tôi, sau những giờ lao động hay ngày nghỉ. Nhưng lòng tôi luôn luôn vô cùng lo sợ vì những đợt máy bay B52 trải thảm ghê rợn, tàn phá núi rừng và gây tử thương cho VC vô số và không biết khi nào đến phiên mình! Đó là chưa kể đến những trận mưa bão của chất độc màu da cam; đó là một loại bột trắng để khai quang rừng xanh, nghe nói rằng đây là chất hóa học rất độc hại cho sức khỏe con người, nhưng đối với tôi nào có ngại ngùng chi, vì bụng luôn luôn quá đói, nên mỗi khi lượm hay mót được củ khoai, củ sắn là vội lấy áo lau lau thật nhanh gọi là giữ vệ sinh và bỏ ngay vào miệng để không cho cán bộ thấy, vì nếu bị phát hiện, tôi sẽ bị phạt “cắt cơm,”  Hai chữ nghe thật đơn giản, nhưng đối với tôi vô cùng thê thảm trong hoàn cảnh nầy! Thế là xong đời củ khoai, củ sắn và lòng hả hê “phấn khởi” vì có một ngày vui! Hạnh phúc hằng ngày của tôi thật là đơn giản “chỉ cần thêm một củ khoai.” 

Thỉnh thoảng Trại có nhiều đơn vị đi công tác xa độ 2, 3, 4 tháng mới trở về. Sau mỗi lần trở về, thường có rất nhiều cán bộ và bộ đội bị thương vong, không khí trong Trại trông thật buồn thảm với nhiều gương mặt đưa đám ma! Mỗi lần như thế là CB Hiệu và CB Ngọ lại gọi tôi lên lớp học tập chính trị để kể tội ác của Mỹ Ngụy và bắt tôi phải liên hệ bản thân và phải  khai báo những tội lỗi của minh qua những chiến công trước đây. Ban đầu tôi chỉ khai báo tượng trưng cho qua chuyện, nên bị phê bình vô cùng gay gắt: "Cách mạng và nhân dân nhiều khi đã hy sinh mạng sống của mình để đội mưa bom bão đạn mà đi tải gạo từ đồng bằng lên đây, để nuôi anh học tập cải tạo; Thế mà anh không thành khẩn liên hệ khai báo qua học tập. Đây cũng là một tội ác! Vì nếu anh không gây nhiều nợ máu, thì làm sao anh làm ĐĐT được."  Nghe lời kết tội mà rùng mình, ớn lạnh. Rồi bọn họ nhìn tôi bằng đôi mắt hình viên đạn canon 20 ly, họ muốn cơ thể tôi cũng phải banh xác như các đồng chí của họ đã bị chết thảm trên chiến trường!...Những lần như thế, thì ngay chiều hôm đó, tôi bị "cắt cơm"chỉ còn lại một chén sắn hay khoai, mất đi 1/4! Bị phạt lâu mau, tùy theo mức độ khai báo thiếu thành thật. Đối với họ, vấn đề tư tưởng chính trị là tối quan trọng. Tôi đã phải trải qua những tháng ngày sống trong cô đơn đầy ác mộng bởi những hăm doạ, khống chế tư tưởng và bị những cơn đói hành hạ triền miên, cọng thêm những lo sợ vì B52!

Chính vì sự căng thẳng nầy nên có nhìều đêm tôi mơ thấy mình trốn trại, đã đi được nhiều ngày với một đoạn đường khá xa, đang bị bộ đội đuổi theo tìm kiếm và bị bắn trọng thương; Sau khi bị bắt lại, một tên CB nói: “Vết thương thằng nầy quá nặng, cho nó một phát là xong đời.”...Bỗng tai tôi nghe một tiếng đùng, làm tôi tỉnh giấc, lòng vô cùng hồi hộp, tim đạp mạnh liên hồi vì hoang mang lo sợ ngỡ mình đã chết rồi. Tôi lấy tay sờ đầu, sờ ngực rồi sờ bụng vẫn còn cảm giác, như vậy mình vẫn còn sống! Tôi ngồi bất dậy, chấp hai tay tạ ơn Trời Phật liên hồi. Sáng mai, trước khi đi lao động, tôi tìm xem tiếng động đêm qua là cái gì? mộng hay thật? Thì ra, một cành cây khô nằm ngang trên mái lán, nhà tôi ở.

Có một buổi chiều trời mưa buồn và gió lạnh, tôi đứng tựa cửa hầm chống B52 nhìn trời mưa đầy u ám và đếm những giọt mưa, miệng lâm râm bài "Giọt mưa trên lá" với ca sĩ Lệ Thu để giết thời gian và giải sầu qua những kỷ niệm của một thời xa xưa...Tinh cờ tôi trông thấy ở đồi bên kia, một người ở trần, mặc quần đùi đang vác một bó củi đã chặt, di chuyển về hướng nhà bếp, để giao cho anh nuôi, giống như tôi thường làm. Giao củi xong, anh ta trở về lại bên kia đồi, tôi thấy anh dáng người cao trên 1.80 m, nước da trắng, thân hình gầy guộc, tóc dài quá ót, có râu mép và rau quai nón, tôi đoán đây là Tù Binh Mỹ. Đây là lần đầu cũng là lần cuối trông thấy anh, trong gần 2 năm bị giam cầm tại đây. Tự nhiên mình cảm thấy ấm lòng như mình đang có bạn.

Trung tuần tháng 5, một đoàn cán bộ gái gồm khoảng 25, 30 cô, miệng nói cười oang oang từ dưới suối tiến lên BCH Tr/Đ,  cùng lúc các anh Cán bộ và Bộ đội từ trên đồi chạy xuống vui tươi chào hỏi và có khi họ ôm chầm lấy nhau như đã quen biết hay đã hẹn hò từ trước. Kể từ hôm đó, những gương mặt nghiêm nghị, có khi đằng đằng sắt khí của cán bộ và bộ đội, cùng bầu không khí yên tĩnh của trại đã nhường chỗ cho những lời ca tiếng hát và những gương mặt rạng rỡ, hớn hở như mọi người đang chờ đón những niềm hạnh phúc bất tận sắp đến. Ngày sang đêm 16, 17, 18 tháng 5 vẫn tràn đầy những bữa tiệc khao quân và ca hát. Qua những đêm ngày, tôi thấy cán bộ và bộ đội thường đi cặp kè với các cán bộ nữ từng đôi một, nhứt là những buổi sáng, người nam dẫn người nữ đi vệ sinh rất tình tứ, mặc dầu trông họ rất thểu não, bơ phờ mệt mỏi, đi thì nghiêng qua nghiêng về như muốn té. Đường đi từ BCH TrĐ ra các cầu tiêu, tất cả mọi người đều phải đi ngang qua lán của tôi ở, nằm thụt xuống dưới chân đường đi gần 1 mét, nên tôi trong thấy đầy đủ và nhận xét rất rõ ràng....

Đêm 19.05.1967, kỷ niệm sinh nhật HCMinh, sau khi tàn tiệc mọi người ôm nhau ngủ ngon lành để nằm mơ thấy bác, vì suốt đêm qua họ cứ hát đi, hát lại “như có bác hồ trong ngày vui đại thắng”, “bác cùng chúng cháu hành quân” hay “hôm qua em mơ gặp bác hồ”.v...v....Cảnh tịch mịch đã trở lại với núi rừng, xa xa một vài tiếng chim kêu vượn hú, tôi nằm co ro trong hầm chống B52 và tự cố gắng dỗ giấc ngủ, nhưng không làm sao ngủ được vì bao ý nghĩ bông lung đang nối tiếp theo sau hay lòng mình đang linh cảm một điều gì không may...Cuối cùng vì quá mệt, tôi đã thiếp đi lúc nào mà không hay.

Hú...hú...hú...hú...hú...rầm...rầm...rầm...rầm...rầm. đó là âm thanh ghê rợn của những tiếng rít từ trên trời cao lao xuống và những tiếng nổ kinh hoàng của hằng trăm, hằng trăm và hằng trăm trái bom từ các máy bay B52 đang trải thảm xuống đầu chúng tôi. Ngay khi phát hiện âm thanh ghê rợn đầu tiên, tôi liền chuyển qua thế nằm chống bom B52, người co quắp lại, toàn thân người nằm tựa trên hai chân và hai tay, đầu kê trên hai bàn tay chồng lên nhau và hai tay ôm lấy đầu, dùng hai chân và hai tay như một cái lò xo để giảm độ chấn động của bom B52. Bỗng một, hai rồi ba trái bom nổ kinh hoàng rất gần chỗ tôi ở, hình như một, hai trái bom trúng phía dưới Suối hay nhà bếp hoặc ở bên kia đồi có người tù binh Mỹ. Vì sức ép quá mạnh, làm người tôi văng dựng lên cao, rồi rớt xuống nhiêu lần làm hai cùi tay, hai cùi chân và lồng ngực đau nhói, đầu choáng váng đau và miệng tôi chảy nước rít rít có lẽ là máu, nhưng chưa rõ từ đâu vì trời vẫn con tối, độ 3,4 giờ sáng.  Không khí trại giam ở trên đồi cao BCH/TrĐ và chỗ tôi ở vẫn tiếp tục im lìm, ngoại trừ những tiếng  gọi nhau xôn xao, có khi lớn tiếng từ hướng nhà bếp, dưới bờ suối và phía bên kia đồi. Tôi đoán không lầm, có từ 3 đến 4 chiếc B52 đã rải bom trong phi vụ nầy, vì có đến 4 lần tiếng bom bị gián đoạn, cách nhau khoảng 3, 4 phút; Giữa những lần tiếng bom B52 gián đoạn, tôi mới nghe được những tiếng kêu cứu kinh hoàng, tiếng hú thất thanh thảm thương của những bầy khỉ, thú rừng và chim chóc đang bị thương vong réo gọi nhau, nghe thật thương tâm! Tôi vẫn nằm yên lắng tai nghe ngóng để chờ sáng. Trong đêm khuya thanh vắng, tôi chợt nghe những tiếng khóc với giọng nữ và tiếng của nhiều bộ đội trao đổi với nhau một cách cấp bách, tôi thầm đoán đã có nhiều người bị thương vong...

Trời vừa hừng sáng, cán bộ Mưu đứng trước hầm chống bom B52 của tôi và nói lớn: “Anh Phước khỏe chứ?  --“báo cáo cán bộ tôi bị tức ngực và chảy máu miệng, u đầu, chóng mặt!” Cb Mưu nói tiếp: “Cố gắng khắc phục, nhiều người còn thảm hại hơn anh. Trại chúng ta đã bị địch phát hiện. Anh có 30 phút chuẩn bị tư trang để chuyển trại. Khẩn trương, khẩn trương”....Tôi vùng dậy gom tư trang gồm 2 bộ áo quần Nam Định lọai phế thải, kể cả bộ đang mặc, một cái mùng rách dùng làm mền, một lon gô đựng canh, một bình đông đựng nước, một rá nhỏ vừa đựng cơm, vừa đùng làm chén ăn cơm và muỗng đủa làm bằng tre nứa.

Đúng giờ, tiếng CB Mưu từ dưới suối vọng lên:”Anh Phước xong chưa, xuống tập trung để cùng đi.” –“Vâng, tôi xuống ngay”. Khi tôi đến bờ suối thì toán bộ đội cảnh vệ gồm 10 người đã sẵn sàng và CB Mưu nói: “Chúng ta sẽ dời qua trại mới, đường đi sẽ mất một ngày, nhưng hôm nay chúng ta sẽ đi lâu hơn vì Đế Quốc Mỹ vừa đánh bom sáng nay, nên phải đi khẩn trương mới kịp trước khi trời tối. Bắt đầu xuất phát.” Trên đường đi, toán bộ đội thay nhau chặt cây, mở đường đi, nhìn cảnh cây cối ngã nghiêng và núi rừng bị tàn phá bởi những hố bom to bằng những thửa ruộng, sâu cả chục mét mà lòng thầy rùng mình ớn lạnh trước sức công phá của những quả bom B52 mà cộng quân thường gọi là những con ma B52 vì chỉ thấy những hố bom, tàn phá và chết chóc mà không nghe tiếng và không thấy máy bay. Trên đường đi, nhìn đâu đâu cũng thấy toàn những cảnh cây cối ngã nghiêng, núi rừng bị tàn phá vô cùng khốc liệt với những hố bom rất rộng và sâu cùng vô số xác thú rừng như những điệp khúc bất tận của một bản nhạc đau thương đầy điêu tàn và chết chóc, hòa lẫn với nỗi lo sợ cho thân phận mình, ngày mai ra sao vì dịp may không đến hai lần, làm sao tôi thoát khỏi cảnh hãi hùng nầy!.....Chúng tôi đến trại mới lúc hơn 7 giờ chiều, vì là mùa hè và trại ở hướng tây nên trời vẫn còn sáng.

Đây là lán trại cũ của một đơn vị CSBV đã bị tổn thất nặng nề gần như tan rã, đã bị điều đi nơi khác để tái bổ sung quân số và huấn luyện bổ túc, nên trại nầy đang bị bỏ trống. Tôi được “bố trí” vào một lán nhỏ 2x3 mét đã có sẵn hầm chống B52. Tôi sống ở đây, ban ngày thì đi lao động, chiều về nghe đài giải phóng, rất ít khi học tập chính trị như trước. Sau một thời gian khá lâu, vào một buổi sáng, CB Mưu xuống lán tôi báo cho biết: “Anh chuẩn bị mặc áo quần chỉnh tề xuống hội trường làm việc với các Cán bộ cấp cao, khi có lệnh gọi” rồi CB Mưu chỉ hướng đi về hội trường vì đây là trại mới. Tôi định hỏi CB Mưu vài điều nhưng không kịp vì anh đã bước đi. Tôi vội thay áo quần mà lòng vừa bồn chồn và lo lắng, không rõ điều lành hay chuyện dữ. Miệng tôi lâm râm niệm danh hiệu Phật để giữ tâm hồn được bình tĩnh.

Độ 10 giờ sáng ngày 02. 09. 1967, tôi được CB Mưu hướng dẫn lên hội trường. Bước vào hội trường tôi vô cùng ngạc nhiên về sự trang hoàng và sắp xếp bàn ghế rất uy nghi có vẻ rờn rợn. Chính giữa hội trường là bàn thờ Tổ Quốc trải khăn màu đỏ, có hình HCMinh to tướng, trông rất dễ sợ vì ông nầy mà cả dân tộc phải điêu linh! Có hai bình Hoa bằng ống nứa với hoa lá rừng và hai cây đuốc bằng ống nứa đang cháy lập lòe và cặp sát hai bên bàn thờ. Từ ngoài nhìn vào bàn thờ, bên trái là một bàn dài gồm 4, 5 ghế, bên phải là một cái bệ cho người điều khiển chương trình. CB Mưu chỉ cho tôi đứng vào một góc đầu hội trường chờ lệnh. Một lát sau, một Thượng úy đi đầu tiếp theo sau là một tiểu đội CSBV với súng đạn đầy đủ, kế đến là 4 CB cấp cao gồm một Đại tá (lạ), Tr tá Hiệu Thủ trưởng, Tr tá (lạ) và Th tá Ngọ, Bí thư. Sau khi ổn định vị trí. CB Ngọ điều khiển chương trình đọc lớn: “Yêu cầu anh Phan Văn Phước tiến lên trước bàn thờ Tổ Quốc” CB Mưu hướng dẫn tôi từ cuối phòng đi lên trước bàn thờ rồi Cb Mưu lui ra. Kể từ giờ phút nầy tôi được chụp hình quay phim làm cho tôi vô cùng hoang mang lo sợ không biết chuyện gì đây!?  Sau phần nghi thức chào cờ, CB Ngọ nói: “Kính thưa đồng chí cấp cao, Đại Diện Thiếu Tướng Tư Lệnh các Lực Lượng Võ Trang Giải Phóng Khu Trị Thiên Huế, hôm nay Trại làm lễ trả tự do cho anh Phan Văn Phước, nguyên Thiếu úy Đại Đội Trưởng ĐĐ 956/ĐPQ thuộc TK Thừa Thiên kiêm Trưởng đồn Lương Mai, đã bị quân đội cách mạng khu Trị Thiên Huế bắt làm tù binh ngày 20.12.1965, sau thời gian 2 năm học tập cải tạo anh PVPhước đã tiến bộ về mọi mặt lao động cũng như học tập chính tri, rất xứng đáng được hưởng lượng khoan hồng của Cách Mạng. Nay Mặt Trận khu Trị Thiên Huế quyết định trả tự do cho anh PVPhước để anh về cùng đồng bào tiếp tục công cuộc đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ Xâm Lược, lật đổ chế độ Thiệu Kỳ giải phóng đất nước xây dựng XHCN, Yêu cầu anh PVPhước quỳ xuống.” CB Mưu tiến lên hướng dẫn tôi cách quỳ xuống một chân phải, chân trái chống lên, hai bàn tay chồng lên nhau và để trên đầu gối trái, thân mình thẳng đứng. Tôi quỳ xong, CB Mưu lui ra và CB Ngọ nói: “Anh PVPhước hãy làm theo sự hướng dẫn của tôi, sau mỗi câu tôi hô cương quyết, thì anh Phước phải hô lớn theo cương quyết 3 lần, đồng thời bàn tay phải nắm lại và đưa mạnh lên cao....Lễ tuyên thệ bắt đầu.”

Thứ nhất: Cương quyết không cầm súng đánh thuê cho Đế Quốc Mỹ xâm lược và trở về cùng nhân dân chống Mỹ cứu nước; lật đổ chế độ Thiệu Kỳ. Cương quyết...CQ...CQ.
Thứ hai: Cương quyết hợp lực cùng sinh viên học sinh, cùng đồng bào, cùng các vị lãnh đạo tôn giáo và quân đội ly khai đòi quân đội Mỹ cút về nước và lật đổ chế độ Thiệu Kỳ.  Cương quyết...CQ...CQ.
Thứ ba:  Cương quyết chấp hành và chu toàn mọi công tác do Cách mạng, Măt trận giao phó.     Cương quyết ...CQ...CQ.

Lễ trả tự do và tuyên thệ chấm dứt, yêu cầu anh PVPhước đứng dậy. Kế đến CB Ngọ trao cho tôi chiếc ví mà trại đã lưu giữ kể từ khi tôi bị bắt và bảo tôi kiểm soát tiền bạc. Sau khi kiểm soát, tôi xác nhận: “Báo cáo CB số tiền 250 đồng VNCH đầy đủ” Anh Đại tá Chủ tọa ngồi giữa, liền đưa ngón tay trỏ chỉ thẳng vào người tôi và nói với giọng Hải Phòng: “Anh vừa mới tuyên thệ đó, chưa đầy vài phút mà anh đã lói Việt Lam Cộng Hòa rồi. Tai sao anh không lói 250 đồng Ngụy?" Tôi sợ quá nên trả lời: "Tôi xin nhận khuyết điểm và hứa từ nay sẽ chú ý hơn.’’ Cũng anh CB Chủ tọa mặt nghiêm nghị, cũng lấy ngón tay trỏ nhịp nhịp chỉ về phía tôi nói lớn: “Nhớ đấy, nần sau nưu ý đừng tái phạm, nhớ đấy.”  Trở lại chuyện tư trang tôi nói: “Báo cáo CB còn thiếu tấm hình của cháu Minh Ái, con gái đầu lòng của chúng tôi." CB Ngọ tiến về phía tôi, hai tay cầm tấm hình cháu Minh Ái xé dọc làm hai mảnh và nói: “Chúng tôi sẽ giữ một nửa tấm hình và trao cho anh một nửa tấm hình còn lại, đây là dấu hiệu chúng ta nhận nhau.” Tôi vô cùng bàng hoàng ngạc nhiên hỏi: “dấu hiệu nhận nhau nghĩa là sao thưa CB?” CB Ngọ trả lời: “Theo lời tuyên thệ thứ ba, CM hay MT sẽ cử người đến gặp anh và trao nhiệm vụ cho anh, anh phải chấp hành cho tốt, nhân dân đang ở bên anh, theo dõi anh, họ là tai mắt của CM. Nửa tấm hình nầy là dấu hiệu nhận nhau, để xác nhận chúng ta là người của MTGPMN”. Ối trời ơi! Ngày đêm tôi mong chờ mau chóng được trả tự do, hôm nay thật sự trả tự do theo kiểu nầy, chẳng khác nào tôi bị tù treo của cả hai chế độ Quốc Gia và Cộng Sản! Nhưng trong hoàn cảnh nầy, tôi nào biết làm sao hơn! Từ chỗ lo âu, tôi liền hít vào thở ra nhẹ nhàng, không để cho họ thấy và để lấy lại sự bình tĩnh. CB Ngọ cấp phát “Giấy Trả Tự Do” cho tôi và yêu cầu tôi phát biểu cảm tưởng trong ngày vui trọng đại nầy, có CB cấp cao đến chủ tọa. Tôi nói lời cảm ơn và phát biểu qua loa cho qua chuyện, vì trong lòng tôi đang ngổn ngang chất đầy những ưu tư lo lắng cho tương lai sau nầy, không biết trôi về đâu! Buổi lễ như tạm chấm dứt, đến phần ăn liên hoan với nồi cháo vịt.

Trong lúc chuẩn bị bàn ghế và thức ăn, anh Đại tá Chủ tọa gọi tôi đến ngồi bên cạnh và thân mật dặn dò: “Khi về đến thành, anh có hai nhiệm vụ trước mắt. Một nà phải phổ biến sâu rộng càng nhiều càng tốt, đến các bạn bè dân sự cũng như trong ngụy quân, ngụy quyền, tại những lơi công cộng đông người như bến xe, bến tàu v..v. về tánh khoan hồng và nhân đạo của CM và của MTGPML đã đối xử tử tế, không đánh đập hay tra tấn. Đặc biệt anh phải lói cho càng nhiều nính Ngụy càng tốt: “hàng thì sống, chống thì chết.” Hai nà anh phải tham gia đấu tranh cùng toàn dân, cùng học sinh, sinh viên, Phật tử, cùng các vị nãnh đạo tôn giáo, cùng các đơn vị ngụy quân ny khai như anh Tướng Nguyễn Chánh Thi Trưởng QĐ I đã ý thức Cách Mạng đòi nập Miền Trung Tự Trị, đòi Mỹ cút về nước, đòi nật đổ chế độ Thiệu Kỳ.v...v. Anh nghe rõ chứ?” Nghe xong lòng tôi ngao ngán! Thì ra bấy lâu nay mọi cuộc xuống đường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Phật Giáo, Công Giáo cùng sự tham gia đông đảo của đồng bào, học sinh, sinh viên, Phật tử cũng như các đơn vị quân đội ly khai như Sư Đoàn 1, Quân Đoàn I đều do VC và MTGPMN tổ chức và lãnh đạo! Còn gì đau đớn nào bằng, khi các chiến sĩ QLVNCH ngày đêm phải hy sinh mạng sống với VC trên chiến trường và chính bản thân mình phải chịu cảnh tù binh khốn cùng để bảo vệ hậu phương ổn định cho đồng bào mình sống trong ấm no, tự do hạnh phúc; bảo vệ quý Thầy mình sống trong an nhiên tự tại để tu học và cứu độ chúng sanh, để cho ông TrT NCThi của mình mau lên lon từ Đại Tá lên Trung Tướng, mau lên chức từ tư lệnh SĐ1 lên TL QĐI, chỉ 2, 3 năm (1963-1965). Thì tại hậu phương đồng bào mình, quý Thầy mình, TrT NCThi của mình và các chiến hữu mình lại cùng nhau đâm sau lưng chiến si không thương tiếc!Theo như lời xác nhận của CB cấp cao của VC, như vậy mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu, đốt công sở, phá thư viện Hoa Kỳ, chống tham nhũng, đảo chánh giết TT Ngô Đình Diệm, chỉnh lý, đem bàn thờ Phật xuống đường, để gây chia rẽ trong lòng dân, làm náo loạn hậu phương là thành quả của CM và MTGPMN, một thành quả không có tiếng súng, không hao tốn sinh mạng. Bất chiến tự nhiên thành!  Quý Thầy mình, đồng bào mình, TrT NCThi của mình và các chiến hữu ly khai của mình có hay biết điều nầy hay không!? Nực cười thay cho những người nhân danh trí thức, tu sĩ, chánh khách, dân biểu, nghị sĩ thuộc thành phần thứ ba luôn chống đối hai chế độ VNCH, sau ngày 30.04.75,  họ được trọng dụng trong một thời gian ngắn của buổi giao thời, rồi sau đó họ bị vắt chanh bỏ vỏ, họ lại ba chân bốn cẳng, bán sống bán chết tìm đường vượt biên, họ hiện đang sống khắp các nước trên thế giới và họ vẫn tiếp tục chê bai, kết tội, nhục mạ hai chế độ tốt đẹp VNCH qua những lời ngụy biện của những kẻ trí thức với những ngôn từ hoa mỹ để bào chữa hay che đậy những việc làm sai lầm tội lỗi của họ trong quá khứ.Câu hỏi đặt ra là tại sao những kẻ vong ân bội nghĩa, ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS nầy không ở lại quê nhà để xây dựng thành công chế độ XHCN mà  một thời họ đã tích cực hy sinh và mơ ước?

Mọi thứ đã ổn định, thịt vịt thì chặt bằng 2 lóng tay, tôi ăn được hai chén rưỡi với ba, bốn miếng thịt, sao mà ngon lạ lùng, ngon hết biết, vì đây là lần đầu tiên sau 2 năm không gà chẳng vịt, nên quên cả ưu tư phỉền muộn! Nhưng sau khi ăn cháo xong, tôi nhớ lại mọi diễn tiến, cử động lớn nhỏ trong buổi lễ, đều được quay phim và chụp hình đầy đủ. Lòng tôi lại vô cùng nghi ngờ, hoang mang và lo ngại, vì nếu bị phát thanh, phát hình và chính phủ VNCH hay được thì đời mình sẽ ra sao với những hình ảnh tuyên thệ nầy? Niềm vui chưa trọn thì nỗi buồn lo lại đến! Ở tù thì sợ bị mất xác vì B52! Được trả tự do tưởng vui mừng, nay thì sợ VC móc nối giao nhiệm vụ! Nhiệm vụ không thi hành thì bị ám sát hay thủ tiêu!

Đứng trước những tình huống xẩy ra quá đột ngột và bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng đã làm cho tôi vô cùng hoang mang lo sợ, mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt và suy nghĩ lung tung. Sau nhiều đêm ngày suy nghĩ, tôi thấy chính phủ VNCH có luật pháp và QLVNCH có quân pháp, có tình và có lý, nên tôi tin tưởng sẽ chứng minh "mình vô tội." Vì đây là âm mưu của CSVN giàn dựng, ngoài sự hiểu biết của tôi, để chính phủ và QĐ hiểu lầm nghi ngờ là tôi đã theo VC, đồng thời sẽ áp dụng kỷ luật QĐ để hành hạ tôi, làm cho tôi đau khổ rồi bất mãn, chán ghét chế độ, sau đó tìm đường lên núi trốn theo VC, đúng như lời chúng đã dụ dỗ tôi. Với một tấm lòng trung thành sắt đá với chính thể VNCH, tôi sẽ dùng mọi lời lẽ của trí óc và con tim mình để trình bày tất cả sự thật về  âm mưu thâm độc nầy của VC. Từ đó tôi thường tự nhủ: "Hãy bình tĩnh sống.”

Sau đó tôi được nghỉ dưỡng sức gần một tháng để chuẩn bị di chuyển một lộ trình dài. Trong thời gian nầy,  CB Mưu bắt tôi phải tập thể dục mỗi sáng 2 giờ để rèn luyện cơ thể và đặc biệt là hai chân, vì tôi đang bị phù thủng nặng, sợ tôi đi dường không nổi. Đến ngày ấn định, chúng tôi từ gỉã trại mới và lên đường về miền xuôi tức vùng đồng bằng, đối với tôi tức là đoàn tụ với gia đình, lòng vui mừng vô kể.  Đoàn chúng tôi đi gồm có 12 người, CB Mưu và 10 BĐ trang bị đầy đủ vũ khí kể cả B40.  Chính 10 người nầy đã mang lương thực gồm gạo, muối và bột ngọt cùng dao, rựa, riù để khai quang!. Còn riêng tôi chỉ mang tư trang cá nhân như đã kể trên mà thôi, vì lý do an ninh! Trên đường đi chúng tôi nghỉ đêm qua nhiều đơn vị CSBV, nhiều trạm giao liên, nhiều điểm tiếp liệu và nhiều bản làng người Lào. Đồng thời, tôi cũng thấy nhiều đơn vị bộ đội quân số đông và nhiều đoàn nhân công nam nữ xuôi ngược lên về. Tôi cũng thấy hằng chục, hằng chục, hằng trăm bộ đội làm đường, sửa đường mòn HCM bằng những cây cổ thụ với sức người, không có cơ giới. Đặc biệt tôi cũng thấy nhiều Bộ đội bị thương tật hay bệnh hoạn mặt mày xanh xao, gầy yếu phải tự cùi gạo để ăn, chống gậy mà đi, gặp CB Mưu đi ngược chiều hỏi đường đến bệnh viện hay đường về Miền Bắc! Lòng tôi vô cùng thương hại và tự hỏi: “Làm sao những người ốm o, gây mòn với tấm thân gầy guột xanh xao như thế nây có thể tìm đường đi đến nơi đến chốn? Thương thay cho một kiếp người Bộ đội”. Vào một buổi chiều, chúng tôi đến Ngã Ba Chiến Lược nằm trên đường mòn HCM. Ngủ đêm tại đây, sáng hôm sau chúng tôi đổi hướng về Nam và ngủ lại nhà dân. Đêm đó chúng tôi bị đánh bom B52, những trái bom nổ cách chúng tôi độ 300, 500 mét. Trời hừng sáng, CB Mưu đã đứng trước hầm chống B52 của tôi để hỏi thăm và cho biết đêm qua có 4 BĐ bi thương vì tức ngực và bị thương nhẹ ở đầu. Lo săn sóc các vết thương cho 4 BĐ nên đến gần trưa, chúng tôi bắt đầu đi về hướngKhe Tre và tiếp tục đi thêm 7, 8 ngày nữa, chúng tôi đến Nam Đông. Sau dó phải vượt qua những con suối lớn, dốc đá rất cao. Trong lúc đôi dép Bình Trị Thiên tôi mang là đôi dép râu cũ nên rất dễ sút quai, do đó khi leo lên gần đến đỉnh thì tôi bị trượt chân và rơi trở lại suối một đọan khá xa và bị thương nặng ở tay, nhẹ ở  đầu. CB Mưu liền cùng hai Bộ đội trèo xuống suối băng bó vết thương và dùng dây cột kéo và đỡ tôi lên. Lên đến đỉnh, tôi nằm nghỉ một hồi khá lâu rồi tiếp tục điSau đó chúng tôi gặp sông Ô Lâu là thượng nguồn của giòng sông Hương.

Chúng tôi đi cặp theo sông Ô Lâu có nhiều thung lũng, đường đất bằng dễ di. CB Mưu thường đi cặp kè bên tôi để trò chuyện cho tôi quên đau đớn, trong lúc đường còn xa. Xuyên qua những hành động, cử chỉ, lời nói của CB Mưu từ lúc còn ở các Trại cũng như trên đường đi đã làm cho tôi vô cùng ngạc nhiên và có cảm tình vì tôi là người đa cảm. Tự nhiên tôi liên tưởng đến cuốn phim La Chaine, do tài tử Tony Curtis và  Sydney Poitier đóng, đoạt 5 giải Oscar. Câu chuyện về hai tù nhân vượt ngục, một da đen Sydney Poitier và một da trắng Tony Curtis, họ bị dính liền nhau bởi cái còng số 8. Ban đầu họ rất căm ghét nhau vì tinh thần kỳ thị chủng tộc đã ăn sâu trong máu! Nhưng họ lại luôn bị dính liền với nhau bởi một cái còng số 8 là sợi dây oan nghiệt! Một sợi dây đã gây bao trở ngại khó khăn qua bao ngày tháng vất vả, khổ cực đầy nguy hiểm vì đói khổ,  trong lúc họ cùng tìm đường thoát thân trước sự săn đuổi bởi nhiều Cảnh Sát và đàn chó săn. Họ đã cùng nhau hợp lực đấu tranh để cùng tìm cái sống trong cái chết. Có một lần người tù da đen đã cố gắng hết sức mình đến quên cả mạng sống để cứu mạng anh tù da trắng đang bị ngập chìm trong vũng sình lầy dày đặc, càng vùng vẫy anh cáng lún sâu, thật khó lòng sống sót! đó là tình người đã được biểu hiện một cách rõ rệt nhất. Từ đó họ mang ơn nhau, có sự cảm thông và thương nhau như anh em ruột thịt. Sau đó họ phá được còng số 8 và chia tay nhau.Trước khi chia tay, anh tù da đen dặn dò anh tù da trắng: "Nhớ đi đường cẩn thận, lần nầy cậu sập hầm không còn ai cứu cậu đâu nhé." Họ cười trong ngấn lệ và chào chia tay, mỗi người đi mỗi ngả.

Hoàn cảnh của chúng tôi cũng tương tự như thế, trước đây chúng tôi ở hai chiến tuyến, thề sống chết trên chiến trường và căm thù nhau vì ý thức hệ Tự Do và CS. Nhưng qua những tháng ngày cùng chia nhau bao hiểm nguy, gian khổ, trong từng giờ từng phút, đêm cũng như ngày! Chúng tôi cùng tìm cái sống trong cái chết, dưới mưa bom bảo đạn vô tình, không phân biệt bạn thù. Cộng với những sự quan tâm, an ủi chân tình mà CB Mưu đã dành cho tôi, đôi khi tôi không còn có cảm giác ngăn cách giữa một Cán bộ quản giáo và một người tù binh nữa. Chúng tôi không bị dính liền nhau bởi cái còng số 8 vô tri, mà chúng tôi bị liên hệ với nhau bằng sự lo lắng và quan tâm đến sự an nguy của nhau, sau những giây phút kinh hoàng. Chúng tôi dính liền nhau bằng một sợi dây vô hình, nhưng rất gần gũi, đó là Tình Người, Tình Người Việt Nam.

Rồi cuối cùng chúng tôi đã về đến một làng nhỏ của người VN sống bằng nghề đốt than. Chúng tôi sống ở đây một thời gian khá dài để chờ Toán Giao Liên số 1từ đồng bằng lên dẫn đường cho chúng tôi về đồng bằng trong an toàn. Trong thời gian nầy chúng tôi có dư thì giờ nên thường cùng ngồi trò chuyện với nhau, có nước lá rừng nóng và kẹo đậu phụng tự chế do tôi ứng tiền để mua đường, đậu.  Một hôm, CB Mưu ngồi lấy mấy ngón tay bấm bấm, tính tính gì đó rồi nói;"Như vậy chúng ta đã đi 38 ngày đường". Luôn tiện tôi  hỏi: “Tại sao trên đường đi, tôi không thấy bóng dáng một người đàn ông hay thanh niên, thiếu nữ nào, mà chỉ thấy toàn là ông già, bà lão, đàn bà và trẻ em mà thôi?” CB Mưu trả lời: “Tất cả thanh niên, thiếu nữ đều đã tình nguyện đi Bộ đội hết cả rồi, vì đi BĐ họ được CM lo cho đầy đủ.” Cuộc trò chuyện đến phần cởi mở, tôi hỏi CB Mưu: "Lâu ngày rồi sao tôi không thấy CB Sinh và 6 anh nuôi?". CB Mưu Trả lời: "Buồn lắm, 7 chiến sĩ đó đã hy sinh vì bom trúng ngay nhà bếp, kéo theo 3 cô bạn gái của họ." CB Mưu im lặng một lúc vì  xúc động nói tiếp; "Ở đồi bên kia, lán trại cũng bị san bằng và nhiều chiến sĩ hy sinh,  trong đó có cả tù binh" Như vậy CB Sinh cộng 6 anh nuôi chia cơm cho tôi mỗi ngày và người tù binh Mỹ với bộ râu quai nón dài mà tôi gặp hôm trước, giờ đây đã yên nghỉ, với họ như vậy là sung sướng, nhưng lòng tôi vẫn thấy thương hại và tội nghiệp cho họ vì khi sống thì đói khổ, không nhà, chết thi không mồ, không áo quan! Thành thật chia buồn cùng các anh.

Chiều nay toán giao liên số 1 vừa đến gặp CB Mưu và họ họp bàn đến khuya, trong một lán nhỏ sau vườn. Sáng hôm sau, chúng tôi lên đường lúc 10 giờ sáng, xuất phát từ nhà dân sát chân núi dãy Trường Sơn. Chúng tôi di chuyển trên thế đất bằng dễ đi, có rừng cây bao phủ rất dễ ngụy trang. Đến 6 giờ chiều, chúng tôi dừng lại trong một khu rừng cây để chờ toán giao liên số 2 từ sông Mỹ Chánh đến đón nhận, để đưa chúng tôi băng qua quốc lộ số 1. Đến 8 giờ tối, toán giao liên số 2 vẫn chưa đến và có lệnh rút lui vì có đơn vị thiết giáp Mỹ vừa đến phục kích trên lộ chiều nay! Thế là đoàn chúng tôi ba chân bốn cẳng tháo chạy về lại hướng nhà dân, trên đường về tôi thấy có thêm nhiều đoàn nhân công nằm ở phía sau chúng tôi, hồi nào không rõ. “Chạy khẩn trương, khẩn trương” lời CB Mưu thúc hối, trên đường chạy, thỉnh thoảng chúng tôi nghe nhiều tiếng đạn pháo binh bắn bay vèo vèo trên đầu. Chúng tôi về đến nhà dân lúc 3 giờ sáng.  Mặc dầu mới ngủ lúc 3, 4 giờ sáng, nhưng sáng hôm sau, CB Mưu đã đánh thức chúng tôi lúc 7 giờ sáng để lo chuẩn bị cơm nước rồi xuất phát lúc 10 giờ, giống như ngày hôm qua. Hôm nay là ngày thứ 2, rồi ngày thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 tất cả mọi diễn tiến đều giống như ngày đầu tiên; nên mọi người đều quá mệt mỏi vì ngủ, nghỉ thì ít mà vừa đi  vừa chạy vừa tránh đạn pháo binh thì nhiều, ai nấy cũng kêu ca vì đuối sức! Rồi đến ngàỳ thứ 7, thứ 8, thứ 9, thứ10 tất cả vẫn đi đi về về như cũ, không có gì thay đổi, vì đơn vị thiết giáp Mỹ vẫn còn phục kích trên lộ! Sức chịu đựng của cơ thể con người cũng có hạn, với tôi chỉ còn là cái xác không hồn, cơ thể rã rời, không còn ham muốn gì cả, chỉ muốn đựơc chết một cái êm ái. Nằm nghỉ trong nhà dân, thấy hai bác chủ nhà cắm hoa rừng và quét dọn bàn thờ. Tôi hỏi: “Hôm này lễ gì vậy, thưa Bác?” bác chủ nhà trả lời: “Hôm nay là ngày 14 ta, cúng vong linh đó con.”  Tôi sực nhớ, tôi có một Bà Dì tên TTTúy Anh chết “bất đắc kỳ tử” rất linh thiêng mà tôi thường thắp nhang khấn nguyện vào mỗi tối 14 hay 30 âm lịch mỗi tháng, khi còn ở nhà. Thế là từ giờ phút đó tôi luôn réo gọi tên Dì tôi: “Xin Dì mau mau đến cứu con. Con nay quá kiệt sức, không còn đi được nữa. Xin Dì linh thiêng gia hộ cho con qua lộ được đêm nay vì Ba Má con, vợ con con đang mong chờ con. Nếu không được, xin Dì cho con trúng vài ba quả đạn pháo binh thật chính xác để kết liễu cuộc đời đầy bất hạnh của con một cách êm ái. Nếu được một trong hai lời cầu xin trên, con xin cúi đầu trăm lạy, ngàn lạy.” Suốt ngày hôm đó, ngoài giờ ăn cơm sáng, thời gian còn lại kể luôn cả thời gian đi đường hôm nay, tôi luôn luôn réo gọi tên Dì tôi và tự nhiên tôi cảm thấy an tâm và tự tin hơn vì lòng tràn đầy hy vọng. Tuy trong người đã kiệt sức, nhưng tôi vẫn theo kịp đoàn người đi, một sức mạnh vô hình đã đẩy tôi đi, thật khó giải thích. Đến khu rừng rậm quen thuộc trong 10 ngày qua, chúng tôi nghỉ chân để chờ toán giao liên số 2 từ Mỹ Chánh lên. Độ 8 giờ tối, chúng tôi bắt tay được toán giao liên và được biết lộ trình đã được khai thông, mọi người reo mừng nhưng đã bị hãm lại vì sự an toàn của mọi người. Đêm nay 14 âm lịch, trăng gần tròn, to, gần lại và sáng, trên trời lấp lánh đầy sao như đang nhảy múa hòa lẫn với nỗi vui mừng hạnh phúc bất tận đang nhảy múa trong lòng tôi. Càng vui mừng, tôi càng réo gọi tên Dì tôi với bao lời tạ ơn và hai tay xá xá lạy lạy!

Chúng tôi theo toán giao liên băng qua quốc lộ số 1 rồi  đi dọc theo sông Mỹ Chánh về đến làng Lương Mai, dân làng đốt đèn xôn xao vui mừng để đón chồng, con, cháu vừa đi dân công lâu ngày trở về được bình an vô sự. Làng nầy trước đây do ĐĐ 956/ĐP và Căn Cứ Lương Mai do tôi chỉ huy để giữ anh ninh. Nay đã bị VC chiếm đóng như một vùng giải phóng. Tôi đựợc bố trí ngủ qua đêm tại nhà dân. Qua một đêm ngủ ngon lành, sau bao ngày mất ngủ, sáng mai thức dậy, tôi thấy trên bàn một mâm cơm đã dọn sẵn gồm cá kho và canh rau muống. Hai bác chủ nhà ân cần mời tôi ăn cơm, tôi xin phép đợi CB Mưu và các anh BĐ, nhưng hai bác bảo tôi cứ ăn một mình để bù lại những ngày thiếu thốn vì CB Mưu đã ăn ở chỗ khác rồi! Tôi ăn liền 3 chén cơm một cách ngon lành, như chưa bao giờ ngon bằng sáng nay. Đến hơn 8 giờ sáng, CB Mưu đến dẫn tôi đi ra chợ Lương Mai. Vừa đến chợ, tôi thấy đồng bào tập trung rất đông chung quanh một sân khấu kê bằng những tấm ván dài. CB Mưu dẫn tôi đứng cạnh sân khấu và báo cho tôi biết khi có yêu cầu, tôi phải lên phát biểu cảm tưởng về việc CM khoan hồng tha tội cho tôi và cảm ơn đồng bào đã cùi gạo lên núi nuôi tôi ăn, học tập tiến bộ để có ngày hôm nay! Theo đúng chương trình của buổi lễ, tôi đã làm đúng theo lời yêu cầu và hướng dẫn của CB Mưu, nên tôi được vỗ tay liên hồi và bị chụp hình lia lịa! Sau cùng, một anh CB địa phương cao nhứt trong đám đã phát cho tôi hai bộ áo quần bà ba màu trắng, loại vải quyến được nhúng hồ rất cứng, có hai túi, cổ tròn, một nón lá, một cái bị lác đựng áo quần. Buổi lễ chấm dứt, một CB bảo tôi lui phía sau sân khấu lột bỏ bộ áo quần cải tạo và mặc gấp bộ aó quần bà ba mới.

Vài ba CB địa phương cùng CB Mưu và các anh BĐ đã đưa tôi đi một đoạn đường dài hướng về bờ sômg Mỹ Chánh, một chiếc đò đã đậu sẵn. Tại đây là điểm chia tay, trước khi tôi chào bước xuống đò thì CB Mưu tiến lên trao cho tôi một gói Trầm độ một ký lô, CB Mưu nói: “Đây là quà tặng của đồng chỉ thủ trưởng Hiệu, vì biết anh là người theo đạo Phật và thường hay đọc kinh mỗi đêm, nên đồng chí tặng anh để về cúng Phật và ông bà để ấm tình CM.” Tôi đón nhận gói trầm thì CB Mưu tiến đến ôm chầm lấy tôi và tôi ôm lấy CB Mưu. CB Mưu thì thầm: “Đi đường cẩn thận, nhớ giữ gìn sức khỏe.” Cầm gói Trầm trong tay mà lòng bùi ngùi một hồi lâu, rồi quay mặt bước xuống đò. Đò rời bến, ra giữa sông mà CB Mưu và các anh BĐ vẫn còn đứng vẫy tay chào...Đò cập bến, tôi bước lên bờ với những bước chân nặng nề trong tấm thân tiều tụy vì đang mang bệnh phù thủng nặng và một mụt nhọt ở thời kỳ cuối, to gần bằng cái chén ở dưới mông, đi cặp sông Mỹ Chánh theo con đường làng vắng người mà lòng bâng khuâng bồn chồn khó tả. Đôi khi tôi tự nhủ cuộc đời như giấc mộng Nam Kha “Kê Vàng” hay đúng hơn là một diễn viên trên sân khấu của một câu chuyện buồn! “Mới ngày nào mình là một Thiếu Úy ĐĐT, mặc quần áo trận, đầu đội nón sắt, chân mang botte de chaud (shoe), tay cầm súng Colt 45 chỉ huy rất oai phong! Rồi bị bắt làm tù binh, mặc áo quần bộ đội loại phế thải, chân đi dép râu, đầu đội nón lá rách, tay khi cầm cây cuốc đào đất trồng khoai sắn, khi cầm cái rựa để đốn cây hay chẻ củi,  ăn bữa đói, bữa no nhờ có thêm một củ khoai,  trông thật đau lòng! Rồi được trả tự do thành bác nông dân trong bộ áo quần bà ba trắng toát, đầu đội nón lá, chân đi dép râu, tay xách bị lác, trông thật không giống ai!... 

Ham mơ mộng nghĩ sự đời, tôi đến gần đồn Nghĩa Quân giữ an ninh cầu Mỹ Chánh lúc nào mà không hay. Các anh Nghĩa Quân chận lại và nhìn tôi với ánh mắt hiếu kỳ và hỏi: “Anh là ai mà dám đến gần đồn, có chuyện chi?” Tôi liền nói: “Tôi là Th/úy PVPhước ĐĐT ĐĐ956/ĐP Trưởng Đồn Lương Mai bị VC bắt làm tù binh, nay được trả tự do; yêu cầu báo cho BCH/TK/TT biết, bây giờ tôi phải làm thế nào?  Sau đó được lệnh bảo tôi phải đón xe đò tự túc về trình diện BCH/TK/TT. Vì nếu TK đem xe ra đón, khi trở về thì Trời đã tối, đường không an ninh. Thế là tôi đón xe đò tự túc về đến An Hòa thì trời đã chiều, đến giờ tan sở, nên tôi đã đón xe cyclo về nhà tại Kim Long bên cạnh khuôn Kim An vào lúc 5, 6 giờ chiều.

Đứng trước cổng nhà, tôi tần ngần quan sát một hồi rồi bước qua hai trụ cao lớn và đi giữa hai hàng giậu chè tàu cao ngang hông, khi đến hòn non bộ ngay chính giữa sân nhà, cách thềm nhà vài thước thì tôi dừng lại, tay phải cầm nón lá nghiêng nghiêng che mặt.  Một người đàn bà tay bồng em bé, đang đứng tựa cửa nhìn tôi chăm chú lấy làm ngạc nhiên và hỏi: “Xin lỗi ông tìm ai?” tôi vẫn đứng lặng yên. Trong khung cảnh buổi hoàng hôn vắng lặng, vào mùa đông của xứ Huế có mưa bay lất phất, người đàn bà cô đơn có vẻ lo sợ nên đã gằn giọng và lớn tiếng hỏi tôi như lần trước. Tôi không thể cầm lòng để đùa lâu được, nên đã hạ nón lá xuống, bước tới hai ba bước và nói: “Anh nầy Em”.Một âm thanh quen thuộc đã xa vắng từ lâu ngày, nay bỗng lại trở về đã làm cho nhà tôi quá đỗi vui mừng, nên đã để mạnh tay em bé xuống nền nhà và lao mình xuống từ trên thềm nhà cao, không kể nguy hiểm,
... “Anh nầy Em”. Một âm thanh quen thuộc đã xa vắng từ lâu ngày, nay bỗng lại trở về đã làm cho nhà tôi quá đỗi vui mừng, nên đã để mạnh tay em bé xuống nền nhà và lao mình xuống từ trên thềm nhà cao, không kể nguy hiểm, tôi bước lên vội đỡ và đón lấy nhà tôi. Hai chúng tôi ôm nhau một hồi lâu với bao nỗi hạnh phúc sung sướng, nửa mừng nửa tủi đến nghẹn ngào không nói được nên lời. Bỗng những tiếng khóc oa oa của con tôi trên thềm cao đã đưa chúng tôi về cảnh thật. Lời nói đầu tiên nhà tôi hỏi: “Anh có khỏe không?” và tôi cũng hỏi lại như thế. Chúng tôi cùng quay mặt lại, cùng tiến lên để bồng con tôi đang khóc, thì mạ tôi dưới nhà chạy lên la lớn: “Tụi bây làm chi để em khóc dữ rứa?” Cùng lúc đó nhà tôi nói: “Má ơi, Anh Phước đã về.”  Sau một hồi nhìn nhìn, ngó ngó thằng con trai đang bị phù thủng, mặt to “bằng cái thúng”, mạ tôi mới nhận ra tôi và òa lên khóc: “Ôi trời ơi, con của Mạ!” với ánh mắt vừa thương hại vừa vui mừng. cháu Minh Ái con gái đầu lòng ở nhà sau cũng chạy lên mừng Ba mới về. Thế là 5 Má con, Bà cháu ôm nhau khóc trong nỗi vui mừng đoàn viên, ngay dưới ngưỡng cửa nhà, trước bàn thờ Phật.  Mạ tôi kéo tay tôi vô nhà và bảo tôi ngồi nghỉ một lát, rồi đi tắm rửa, nghỉ ngơi cho khỏe.  Mạ tôi không quên dặn dò: “Con ở trong rừng sâu nước độc lâu ngày, có nhiều sơn lâm chướng khí đã tích tụ trong người rất nhiều chất độc. Nên con phải chờ mạ nấu Chè Môn ăn xổ độc, rồi con mới được gần vợ con. Nghe chưa?  -- Dạ dạ, con xin cảm ơn Má.

Đêm nay, chúng tôi có một bữa cơm đoàn tụ sau bao ngày xa cách, một bữa cơm mà tôi hằng mơ ước trong những ngày ở tù, nay đã trở thành sự thật. Có xa cách mới thấy trân quý những giờ phút gần gũi. Ôi còn gì vui sướng hạnh phúc nào bằng!  Mọi người ai ai cũng lộ vẻ hân hoan vui mừng khó tả. Trước khi bắt đầu vào bữa, Ba tôi yêu cầu mọi người cúi đầu tạ ơn Chư Phật, Chư Vị Bồ Tát và ông bà Tổ Tiên đã gia hộ cho chúng tôi có được buổi đoàn viên hôm nay. Tôi tiếp lời, ngoài ra con xin cả nhà cũng nên cảm ơn Dì Tâm, vì Dì đã cứu con vượt qua lộ trong giờ phút hiểm nghèo! Mọi người cùng làm theo sự hướng dẫn của Ba tôi. Bữa cơm tuy đơn sơ vì không kịp chuẩn bị trước, nhưng rất ngon vì tràn đầy tiếng cười và trong lòng mọi người đều thể hiện nỗi vui mừng khó tả. 

Riêng tôi là người hạnh phúc nhất trần gian vì ngoài việc gặp lại Ba Má và 5 em, tôi còn được gặp vợ, cháu Minh Ái con gái đầu lòng với tấm hình bị xé làm đôi và cháu Quốc Phong con trai đầu lòng của tôi, khi nó vừa tròn 1 tháng tuổi thì tôi bị bắt làm tù binh. Cơm nước xong, đến phần gia đình hàn huyên tâm sự, mọi người đều đóng góp vào câu chuyện nên không khí khi thì tiếu lâm vui nhộn, lúc thì cảm động bùi ngùi không cầm được nước mắt vì vui mừng và hạnh phúc! Má tôi là người mở đầu câu chuyện: “Vợ con đi tìm xác chồng, sau khi được tin Đồn Lương Mai do tôi chỉ huy bị thất thủ và mất liên lạc, không biết sống chết ra sao và sau đó, BCH/TK/Thừa Thiên cùng TrĐ 3 /SĐ1 đang hành quân phối hợp để tái chiếm. Binh sĩ bị thương vong được trực thăng tải thương đưa về bệnh viện Nguyễn Tri Phương nằm trong khuôn viên BTL/SĐ1. Thế là vợ con từ sáng sớm đã đi xuống BV NTPhương để tìm xác chồng, bất cứ chiếc trực thăng tải thương nào đáp xuống là vợ con ba chân bốn cẳng chạy lại để quan sát từng anh thương binh một và hỏi thăm về số phận của con và mở từng chiếc Poncho xem mặt để nhận diện tìm xác chồng, vì trong số những người bị thương đều không phải là con. Những gia đình nhận được xác chồng cha thi họ đi lo hậu sự; còn vợ tôi môt mình chờ đến chiều mới trở về nhà. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, vợ con đều đi và về như thế, mỗi lần về đến nhà là khóc với than: Ông Trời ơi là Ông Trời, sao mà quá bất công, mọi người ai cũng nhận được xác chồng, còn con thì không! Như vậy chồng con bị cọp beo thú rừng ăn mất xác rồi con chi nữa. Ông Trời ơi là Ông Trời.” Vừa nghe xong câu nói quá ngây thơ, đầy tình nghĩa vợ chồng của một ngưới đàn bà 19 tuổi  có một con và đang bụng mang dạ chửa, trong những lúc quá đau khổ đến điên lọan vì không tìm được xác chồng. Tất cả đều im lặng như đang lắng nghe những giọt lệ nóng đang lăn tròn trên gương mặt mọi người với lòng yêu thương, quý mến và trân trọng. Đến đây tôi choàng tay ôm chặt vợ tôi vào lòng, hôn nhẹ và nói đùa: “Anh cảm ơn em, nhưng mà hồi đó em nhận được xác anh thì bây giờ chúng ta đâu có ngồi bên nhau như thế nầy.”  Mọi người đều cười, em gái tôi tiếp lời: “Chị Nguyệt may phước lắm đó, nếu chị nhận được xác anh Phước thì bây giờ chị trở thành Bà Quả Phụ Phước rồi.”

Má tôi tiếp tục câu chuyện: “Câu than khóc trên như là điệp khúc được vợ con lập đi lập lại nhiều lần, ngày cũng như đêm, đến nỗi không ai can ngăn được! Mãi đến khi có một chú thương binh cụt mất cánh tay trái, vết thương vẫn chưa lành, đến báo tin: “Con tên là Vy lính của ĐĐ 956/ĐP là một trong 11 người bị VC bắt làm tù binh. Chính Th/úy Phước đã xin VC thả con về nhà để chữa trị vết thương vì quá nặng, máu ra quá nhiều, không có thuốc cầm máu, chỉ băng tạm bằng miếng vải mùng nên rất khó sống! Thêm vào đó Th/úy còn nói con chỉ là binh nhất mới đi lính chỉ một năm không biết gì, Nếu VC cần gì Th/úy là ĐĐT sẽ khai báo đầy đủ.  Sau đó VC nhờ dân đưa con về một y trạm nằm trong lãnh thổ tỉnh Quảng Trị” Kế đến chú Vy trao cho vợ con một mảnh giấy nhỏ: Anh vẫn còn sống và bị bắt làm tù binh. Thương nhớ Em ráng nuôi con. Thương nhớ Ba Má và các em nhiều. Con, anh Phước, và kể từ đó, vợ tôi mới yên trí không còn khóc than nữa.”...Sau đó độ 9 tháng, vợ tôi nhận được giấy mời qua ĐĐ Hành Chánh Tiếp Vận/TKTT để nhận tiền tử tuất là tiền lương 12 tháng dành cho những người bị chết hay bị mất tích trên 9 tháng.

Kế đến Ba tôi đứng dậy, đi mở tủ lớn lấy ra ba hộp bánh Biscuit Lu để lên bàn và nói: “Đây là số tiền tử tuất của con, gồm một trăm mười bốn ngàn đồng($114,000.00) mà vợ con đã trao cho Ba Má giữ kể từ ngày nhận nó.Tại sao Ba Má lại giữ số tiền nầy?...Sau khi vợ con đi nhận được số tiền trên, cùng chiều ngày hôm đó, cũng trong một bữa cơm gia đình như hôm nay, vợ con tay cầm số bạc vừa nhận được, lễ phép thưa với Ba Má và gia đình:“Đây là số tiền tử tuất của anh Phước con, Ba Má là người có công sinh thành dưỡng dục chồng con và lâu nay Ba Má lại thương yêu và lo lắng cho con như con ruột thịt, cho mẹ con chúng con cùng ở chung một mái nhà dưới sự đùm bọc của Ba Má và các em. 

Con cảm thấy quá hạnh phúc, nên con không cần đến số tiền lớn lao như thế này. Con xin gởi lại Ba Má để chi dùng trong gia đình.”  Ba Má tôi nhứt mực khước từ: “Đây là tiền xương máu của chồng con và là cha của các cháu, con nên giữ số tiền nầy để làm vốn nuôi con và phòng thân sau nầy” Nhưng vợ con cũng nhất quyết không nhận. Cuối cùng Mẹ con đề nghị: “Thôi được, nếu con đã nhất quyết không nhận thì Ba Má đành phải nhận dùm và cất giữ ở đây, chờ thằng Phước trở về, Ba Má sẽ giao trả lại cho các con.” Quả là một ý kiến hay giải quyết êm đẹp mọi bề, thế là Ba tôi đã để tiền vào 3 hộp bánh Biscuit Lu và cất giữ cho đến hôm nay và trao lại cho vợ chồng chúng tôi: “Bây giờ hai con hãy nhận lấy số tiền nầy để làm vốn xây dựng cuộc đời tương lai.” Hai vợ chồng chúng tôi đưa tay đón nhận và tôi đáp lời: “Trước tiên chúng con xin chân thành cảm ơn Ba Má và các em đã thương yêu lo lắng an ủi vợ con con trong thời gian con bị họan nạn.

 Chính nhờ tấm chân tình và lòng thương yêu thiết tha đó đã giúp cho vợ con có tinh thần và nghị lực để chờ đợi con. Con xin lạy hai lạy gọi là tạ ơn Ba Má và một lạy để cảm ơn các em.”...Bữa cơm đoàn viên sum họp để chào đón người về từ cõi chết đã kết thúc một cách nhẹ nhàng cách đây 50 năm, nhưng những hình ảnh, những tình cảm diễn biến theo từng câu chuyện đầy tình nghĩa của Cha Mẹ đối với dâu con, lòng chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng và lòng hiếu thảo của đạo dâu con như những tâm hồn cao thượng đã khắc sâu trong lòng chúng tôi mỗi khi nhắc đến như vừa mới xẩy ra ngày hôm qua.

Sáng nay tôi đi trình diện BCH/TK/TT, sau khi Phòng 2/TK lấy tin tức về tình hình địch mà tôi biết được trên đường đi 49 ngày, họ chuyển tôi qua Ty An Ninh Quân Đội Tỉnh TT. Tôi ngồi đợi trong một phòng thẩm vấn rộng, hơi lành lạnh, tường sơn màu lam đậm có ghi một hàng chữ thật lớn màu đỏ “Ở đây tai vách, mặt rừng” làm cho tôi phải cẩn trọng trong từng lời khai.  Một ông Đại Úy trẻ đẹp trai với một xấp hồ sơ dày cợm trên tay bước vào và để hồ sơ trên bàn, rồi giới thiệu ông là Đ/u Hướng.  Sau khi thăm hỏi xả giao và bắt đầu thẩm vấn tôi: “Thiếu úy được VC phóng thích kể từ ngày 02.09.1967, hôm nay là ngày 21.12.1967, Th/u mới đi trình diện. Như vậy trong thời gian gần 4 tháng qua Th/u ở đâu, làm gì và tiếp xúc với những ai?” Tôi trả lời: “Trong 4 tháng qua, tôi vừa ở tù vừa đi bộ vượt Trường Sơn với 11 bộ đội VC.” Đ/u Hướng có vẻ không tin và gắt giọng hỏi: “Làm sao Th/u lại ở tù, khi VC đã phóng thích Th/u với đầy đủ hình ảnh và truyền đơn như thế nầy?” Đ/u Hướng đưa ra rất nhiều hình ảnh của buổi lễ phóng thích và tuyên thệ cùng với quyết định trả tự do kể từ 2.9.1967 mà các lực lượng hành quân của Sư Đoàn 1, Tiểu Khu TT và các xã ấp đều nhận được.  Tôi trả lời: “ Vâng đúng như thế, VC phóng thích tôi ngày 2.9.1967, nhưng chúng lại lưu giữ tôi hơn 2 tháng trên đất Lào và bắt tôi đi bộ 49 ngày vượt núi, trèo đèo, băng suối dưới mưa bom bão đạn của QĐVNCH và Đồng Minh, nên tôi mới vừa về đến nhà chiều hôm qua.” Đ/u Hướng như muốn điên lên và đứng dậy tiến về phía tôi và nói giận dữ: “Th/u đùa với tôi à, không bao giờ có trường hợp nầy xẩy ra. VC đâu có dư cơm, dư gạo, dư người để nuôi ăn 2 tháng và dẫn Th/u đi vòng vòng chơi 49 ngày? Tôi vẫn bình tĩnh trả lời lịch sự: “Xin Đ/u bớt nóng giận, tất cả mọi điều tôi khai đều là sự thật.” Đ/u Hướng mở to mắt hỏi: “Th/u lấy gì làm bằng chứng là sự thật?  Ở tù chung với ai? Trại tù của Th/u có bao nhiêu người?  Có ai cùng được thả về như Th/u không?” Cũng cách trả lời như trước: “Tôi không có bằng chứng nào. Tôi là người tù độc nhất vô nhị trong trại tù nầy. Chỉ một mình tôi được thả, ngoài ra tôi không biết một ai.” Đ/u Hướng thở ra lắc đầu lia lịa, hai tay gãi đầu và rời khỏi phòng, bước xuống sân đi đi lại lại suy nghĩ một hồi lâu, sau cùng Đ/u Hướng trở lại, nhẹ nhàng hỏi tôi: “Ngoài ra Th/u còn có gì để trình báo với cơ quan an ninh không?” Tôi xin tường trình: “Sau khi làm lễ phóng thích và tuyên thệ, VC có lấy một tấm hình con gái của tôi và xé dọc làm hai mảnh. Họ trao cho tôi một mảnh 1/2 tấm hình và họ giữ 1/2 tấm hình. Họ nói hai nửa tấm hình nầy là dấu hiệu nhận nhau, mỗi khi có người của MTGPMN đến giao công tác cho tôi.” Đ/u Hướng vô cùng ngạc nhiên, đứng dậy và hỏi gằn giọng: “VC sẽ giao công tác cho anh? Thế thì anh hứa với họ thế nào?” Tôi thong thả lấy 1/2 tấm hình ra và trả lời: “Đúng thế, trong lúc làm lễ phóng thích tôi, VC nói sau nầy, họ sẽ tìm đến tôi và giao công tác cho tôi. Riêng tôi không hứa hẹn gì cả. Đó là tất cả sự thật và đây là 1/2 tấm hình là dấu hiệu nhận nhau với VC. Tôi xin giao nạp cho quý cơ quan tùy nghi.” Gương mặt Đ/u Hướng tươi lên và mắt sáng ra, đầu gật gù nói: “Thôi được, hôm nay Th/u nhắn gia đình mang cơm và tư trang để ở lại Ty ANQĐ chờ lệnh.” Chiều hôm đó Má tôi, vợ con tôi bới cơm, mang áo quần vào thăm tôi tại nhà tạm giam của Ty ANQĐ. Má tôi hỏi tôi: “Tại sao họ lại giữ con lại đây, trong lúc con đang bị phù thủng nặng, lại thêm có một mụt nhọt lớn bằng cái chén ở mông, không thể ngồi thẳng được?” Tôi trấn an Má và vợ tôi: “Không sao đâu Má, có lẽ cơ quan An Ninh cần thêm một vài tin tức, nên vài ba ngày rồi con sẽ về với Má, với em. Xin Má và em yên tâm vì mình là người Quốc Gia mà, có gì đâu mà lo sợ.” Sau ba ngày làm việc và 3 đêm ngủ tại nhà tạm giam của Ty ANQĐ, tôi nhận được Sự Vụ Lệnh vào trình diện Cục ANQD tại số 8 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sàigòn.

Sáng hôm đó, một buổi sáng mùa đông giá lạnh, có mưa bay lất phất và gió nhẹ, Má tôi cùng vợ và hai con tôi tiễn đưa tôi tại phi trường Phú Bài. Đến giờ máy bay sắp cất cánh, Má tôi nắm tay cháu gái, đứng bên cạnh vợ tôi tay bồng cậu con trai vẫy tay, vẫy tay chào để tiễn đưa một người chồng bất hạnh, sau bao tháng ngày xa cách, vừa được trả tự do, thì lại bị cách ly 3 ngày 3 đêm tại nhà tạm giam của Ty ANQĐ và giờ đây, lại một lần nữa phải chia ly! Còn gì đau buồn và tủi thân cho bằng thân phận của một người vợ lính có chồng bị làm tù binh của VC! Tôi ngồi trong lòng chiếc C123 của Không Lực Hoa Kỳ bắt đầu cất cánh, đầu tôi choáng váng và người thì ngột ngạt vì những tiếng động cơ rầm rầm chát chúa và quá, quá lớn gần giống như những âm thamh ghê rợn quen thuộc của hôm nào! Sau khi máy bay bình phi, tôi nhắm mắt và lòng thầm nghĩ: “Thế là lại thêm một đoạn đường chiến binh đầy chông gai, với bao chướng ngại vật, lắm hố sâu tường cao và nhiều dây tử thần đang mở ra trước mắt đón chờ tôi...Nhưng không sao, vì tôi đã tự nhủ với lòng mình “Hãy bình tĩnh sống!” "Đời buồn thì chim đã không kêu, Hoa nở tức là Trời không dữ."

Phan Văn Phước. Khóa 13 SQTBTĐ
        Thanh Long. KBC 4005





--
Thomas D. Tran

Không Nói, Không Viết, Không Làm
những gì có lợi cho cộng sản.


__._,_.___

Posted by: <vneagle_1


Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List