QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Friday, April 22, 2016

Việt Nam Cộng hòa tại Olympic

 
 Việt Nam Cộng hòa tại Olympic Munich (Đức) năm 1972
VNCH tại Olympic Helsinki (Phần Lan) năm 1952
Cờ vàng tại Olympic – Munich 1972.
Việt Nam Cộng hòa tại Olympic Melbourne (Australia) năm 1956.
Cờ vàng tại Olympic – - Melbourne 1956.


Cờ vàng tại Olympic – Tokyo 1964.



Cờ vàng tại Olympic – Munich 1972.
 



Việt Nam Cộng hòa tại Olympic Roma (Italia) năm 1960.

 Việt Nam Cộng hòa tại Olympic Mexico năm 1968.
 

From: Diep Le
Sent: Wednesday, April 20, 2016 6:27 PM
To: 'baninhnt
Subject: RE: Có thể bạn quên

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd1/HQPD_1316389911.jpg

Xe La Dalat

Hảng xe Citroën đã thiết lập một cơ xưởng ở Đông Dương vào năm 1936, trụ sở lúc đầu đặt tại góc đường Lê Lợi - Nguyễn Huệ hiện nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Dưới thời VNCH được dời đi và đổi tên thành Công Ty Xe Hơi Citroën, sau là Công Ty Xe Hơi Saigon.


From: Diep Le
Sent: Tuesday, April 19, 2016 6:22 PM
To: 'baninhnt
Subject: Có thể bạn quên

Hoàng Ngọc Diêu's photo.
Một trong những chiếc đồng hồ Alfana còn sót lại.
Nguồn: Vietnam Bulletin - Industrial Developement of Vietnam (9/69).

Có thể bạn chưa biết.
Hoàng Ngọc Diêu
Cho đến năm 1967, Việt Nam Cộng Hoà đã có đến 4 công ty chế tạo đồng hồ: Vinawa, Tân Việt Nam, Alfana và Vikyco (còn gọi là Việt Long Kỹ Nghệ Công Ty). Mỗi năm 4 công ty này sản xuất 25 ngàn đồng hồ đeo tay, 75 ngàn hệ thống báo động, đồng hồ treo tường chạy bằng pin và bằng điện.

Theo tường trình của tạp chí Kinh tế Việt Nam năm 1969, các công ty chế tạo đồng hồ có kế hoạch nhập những thiết bị tân tiến từ Hoa Kỳ và Tây Đức để đi đến chỗ sản xuất linh kiện 100% trong nước thay vì phải nhập khoảng 40% linh kiện (với 60% linh kiện được chế tạo tại Việt Nam).

Sau 1975, các hãng sản xuất này hoàn toàn biến mất.





__._,_.___

Posted by: <vneagle_1

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

 

 
 

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

Đinh Từ Thức
image

Last Days in Vietnam là bộ phim tài liệu mới nhất về những ngày cuối cùng trước khi VNCH tan rã vào 30 tháng Tư, 1975. Trước đây đã có hai bộ phim tài liệu với nội dung tương tự: The Fall of Saigon The Lucky Few. Bộ phim mới này đã gây tiếng vang trước khi được phổ biến rộng rãi.

Last Days in Vietnam do Rory Kennedy, con gái út của Bộ Trưởng Tư Pháp và Nghị Sĩ bị ám sát Robert Kennedy, sản xuất cho hệ thống PBS, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nam VN rơi vào tay cộng sản. Bộ phim này mới được chiếu ra mắt tại một số rạp ở California, và Washington DC vào tháng 9 và đầu tháng 10, 2014, và sẽ được cho chiếu rộng rãi vào tháng Tư, 2015. Vì nội dung tương tự, có người tưởng lầm đây là một trong hai bộ phim cũ được chiếu lại. Thật ra, The Fall of Saigon do Michael Dutfield sản xuất cho Discovery Channel đã ra đời từ 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất Sài Gòn. Còn The Lucky Few do Hải Quân Hoa Kỳ (US Navy) sản xuất năm 2010, vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam VN, ghi lại vai trò của hộ tống hạm USS Kirk trong cuộc di tản của toàn thể hạm đội VNCH từ Sài Gòn tới Philippines.

“Hậu sinh khả uý”, tuy cùng là những tài liệu và nhân vật thật, nhưng bộ phim mới nhất có những ưu điểm so với hai bộ phim trước. Về mặt kỹ thuật, Last Days in Vietnam được chiếu ở rạp, với màn ảnh lớn và âm thanh tốt, làm tăng cảm giác của người xem. Về nội dung, tuy cũng là phim tài liệu như hai bộ phim trước, nhưng phim này “có đầu có đuôi” như một cuốn phim truyện. Xem xong, ngoài những hình ảnh đặc biệt, có khi lần đầu tiên được thấy, cuốn phim còn để lại trong lòng người xem những điều đáng suy nghĩ, về danh dự, về trách nhiệm, và tình người.
Từ hoà bình không danh dự…
Cuốn phim đã bắt đầu bằng hình ảnh và tài liệu về kết quả Hội nghị Hoà bình Paris 1973: Chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Nhưng những người ký tên vào Hiệp Định, và những người long trọng hứa bảo vệ hoà bình bằng mọi giá đã coi thường danh dự của mình. Sau khi quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam, và sau khi Tổng Thống Nixon phải từ chức vì vụ Watergate, chiến tranh tiếp diễn tàn ác hơn trước khi có hiệp định hoà bình.

Frank Snepp, một cựu nhân viên CIA xuất hiện trong phim, nói Hiệp Định Paris là một ‘tuyệt tác mơ hồ” (masterpiece of ambiguity), hàm ý văn bản Hiệp định Hoà bình thiếu rõ ràng, khiến cộng sản Hà Nội có thể gia tăng chiến tranh, chiếm trọn miền Nam trong hai năm. Nhận định này không chính xác. Với Cộng Sản, những người theo cơ hội chủ nghĩa, khi đặt bút ký vào một thoả hiệp, là nắm lấy một điểm tựa đề chờ cơ hội, bất chấp văn bản thoả hiệp rõ ràng hay mơ hồ. Dù văn bản thiếu rõ ràng, khi cơ hội chưa tới, họ vẫn có thể chờ. 

Khi Nixon từ chức vào năm 1974, và Quốc Hội Hoa Kỳ bác yêu cầu tháo khoán 722 triệu Mỹ kim cuối cùng đã hứa viện trợ cho Sài Gòn, là cơ hội trời cho, Hà Nội không còn sợ Mỹ trừng phạt, dù hiệp định hoà bình rõ ràng hay không, họ vẫn tăng tốc cuộc chiến chiếm trọn miền Nam. Bằng chứng là Hiệp Định đình chiến Genève 1954 đã quy định rõ ràng các viên chức thuộc chính quyền Quốc Gia phải vào phía Nam, và phe Việt Minh phải tập kết ra phía Bắc vĩ tuyến 17. 

Nhưng, lãnh đạo hàng đầu của cộng sản như Lê Duẩn, đã cố tình vi phạm Hiệp Định ngay khi nó mới được bắt đầu thi hành, đã lên tầu cho mọi người thấy, rồi nửa đêm trốn ở lại, đặt cơ sở cho cuộc chiến sau này.

Với những người cộng sản, và đôi khi cả những người không cộng sản, danh dự chỉ là cái vỏ bọc cho cơ hội.

Chỉ hai năm sau khi Washington và Hà Nội đạt được “hoà bình trong danh dự” tại Paris, bản đồ VN dưới vĩ tuyến 17 đã bị nhuộm đỏ trong nháy mắt, đưa tới hồi kết không thể tránh: Mỹ rời khỏi Việt Nam. Nhưng ra đi như thế nào, vào lúc nào, và với ai, là điều không đơn giản.

Đến trách nhiệm của người đi
Quân Mỹ chiến đấu đã rút hết khỏi VN từ sau Hiệp Định Paris, tuy vậy, vẫn còn lại mấy ngàn người Mỹ là nhân viên ngoại giao, các chuyên viên kỹ thuật, kiến thiết, doanh nhân, ngân hàng…. Mỹ có trách nhiệm đưa hết người Mỹ về nước, và trách nhiệm cả với những người Việt đã tin tưởng, cộng tác, hay làm việc cho Mỹ. Vào tháng Tư, tin tình báo cho biết quân cộng sản cố lấy Sài Gòn để mừng sinh nhật HCM vào ngày 19 tháng 05, 1975. Mỹ cố gắng hoàn tất việc ra đi vào cuối tháng Tư. Ngược dòng với những người đôn đáo cố gắng ra đi, có những người từ ngoại quốc liều lĩnh quay lại Sài Gòn, như cựu đại uý bộ binh Mỹ Stuart Herrington, cố gắng xoay xở đưa bạn bè hoặc thân nhân người Việt ra đi. Có bốn kế hoạch ra đi đã được dự trù: đầu tiên là máy bay thương mại, thứ nhì là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là máy bay trực thăng ra Hạm Đội số 7.
Các kế hoạch trên đã không thể thực hiện như dự tính. Những ngày cuối tháng Tư 1975, có tới năm ngả di tản khỏi Sài Gòn:

1- Đi theo ngả DAO, diễn ra trong mười ngày cuối cùng của tháng Tư, dành cho nhân viên quân sự người Mỹ, người Việt và thân nhân hoặc những người quen biết. Đây là cuộc di tản sớm nhất, kín đáo nhất, do một số giới chức quân sự Mỹ chủ trương, không qua sự đồng ý chính thức hoặc dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền VNCH. 

Có người đã dùng chữ “lậu” (black-ops) để chỉ ngả ra đi này, bằng máy bay quân sự Mỹ, lúc đầu là máy bay vận tải C-141 và C-130, từ Tân Sơn Nhứt tới căn cứ không quân Mỹ Clark Airbase ở Philippines. Sau khi Tân Sơn Nhứt và khu DAO tại đây bị pháo kích sáng sớm 29-04, trực thăng được sử dụng để chở người ra Hạm Đội 7. Rất ít hình ảnh được phổ biến cả từ nơi đi và nơi đến của ngả di tản này.

2- Đi theo ngả Toà Đại Sứ Mỹ. Đây là cuộc di tản ồn ào nhất, lộ liễu nhất, và được chú ý nhiều nhất, bắt đầu từ sáng 29, chấm dứt sáng sớm hôm 30 tháng Tư, sẽ nói thêm.

3- Đi bằng tầu Hải Quân VNCH, rời Sài Gòn tối 29, tập trung ở Côn Sơn ngày 30 tháng Tư, tới căn cứ Hải Quân Mỹ ở Subic Bay, Phi Luật Tân, ngày 07 tháng Năm, sẽ nói ở cuối bài.

4- Một số cá nhân hoặc nhóm, một mình hoặc cùng với thân nhân đi bằng trực thăng loại nhỏ Huey của VNCH, một số không đủ nhiên liệu bay xa, được cho đáp xuống hộ tống hạm Mỹ USS Kirk, hoạt động gần đất liền hơn Hạm Đội 7. Vì không đủ chỗ chứa, 13 trực thăng sau khi đáp đã bị đẩy xuống biển. Số đông hơn đủ nhiên liệu bay tới Hạm Đội 7, gần 20 tầu, dưới quyền chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, xếp hàng chờ đợi cách Vũng Tầu khoảng trên ba chục cây số. 

Tướng Nguyễn Cao Kỳ tự mình lái trực thăng chở Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đáp xuống Blue Ridge. Một quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ kể lại, nhìn lên trời lúc đó, trực thăng tị nạn đông như đàn ong về tổ. Có 5 chiếc bị đụng bể khi đáp, mảnh vỡ bay tứ tung, xuýt gây tai nạn. Một chiếc rớt xuống biển.

Điều lạ trong Last Days in Vietnam, vào thời máy quay phim còn rất hiếm, không rõ bằng cách nào bộ phim đã có được hình ảnh chuyến đi đầy kịch tính của gia đình thiếu tá phi công Nguyễn Văn Ba, từ khi ông lái chiếc trực thăng khổng lồ CH-47 đáp xuống sân vận động gần nhà, đón vợ và ba con nhỏ, bay đến USS Kirk. Trực thăng quá lớn, dài hơn 30 mét và nặng trên 10 tấn, nếu đáp xuống, có thể gây tai nạn, hoặc làm đắm tầu. 

Ông Ba đã tài tình cho máy bay quần rất thấp, hai con và vợ với con gái út một tuổi lần lượt nhảy xuống, để những bàn tay thuỷ thủ đỡ lấy. Riêng ông Ba, đã điều khiển cho trực thăng nghiêng về một phía, tạo thế cho cỗ máy trị giá trên 30 triệu đô la “chổng gọng” trên mặt biển, cùng lúc phóng ra từ phía kia, lặn xuống để tránh những mảnh vỡ khi máy bay chạm nước. Mọi người hồi hộp căng thẳng chờ đợi, rồi reo hò mừng vui thấy đầu ông nhô lên khỏi mặt nước. Không phải chỉ có mình thiếu tá Ba và vợ con ông là những người liều lĩnh. Những ai tự nguyện đứng dưới bụng chiếc trực thăng nặng hơn hai chục ngàn cân để đỡ người nhảy xuống, cũng là những người can đảm cùng mình; chỉ một sơ sẩy nhỏ, cũng toi mạng.
clip_image002
                                                                      Trực thăng CH-47 lái bởi Thiếu tá Phi công Nguyễn Văn Ba bay xà trên USS Kirk
5- Đi bằng tầu buôn vào sáng 30 tháng Tư, như Việt Nam Thương Tín, Trường Xuân, xà lan, và nhiều tầu nhỏ khác. Ngả di tản này cũng đầy hiểm nguy gian khổ. Chính trên boong tầu Việt Nam Thương Tín, nhà văn nhà báo Chu Tử đã thiệt mạng vào trưa 30-04 vì mảnh đạn pháo kích của cộng sản bắn đuổi theo người ra di, trước cửa sông Lòng Tảo, ngang Vũng Tầu. Tầu Trường Xuân chở tới bốn ngàn người, vớt từ nhiều thuyền nhỏ, thiếu thốn đủ thứ, gian nan tới được Hồng Kông.
Còn một cuộc ra đi nữa bằng tầu, từ Cần Thơ, ít người biết tới. Khi được phỏng vấn về cuốn phim Last Days in Vietnam, Rory Kennedy cho biết đã có đầy đủ tài liệu về chuyến đi này, nhưng sợ quá rườm rà, đã loại khỏi bộ phim. Ông Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ, khi được lệnh sử dụng hai trực thăng để ra đi cùng những nhân viên người Mỹ, đã không đành lòng bỏ lại các nhân viên người Việt và thân nhân của họ, sợ họ sẽ bị cộng sản bách hại. Vì tình người, hành động theo lương tâm, ông bỏ trực thăng, dùng tiền của mình mua hai chiếc tầu, chở tất cả 450 người rời lãnh sự quán theo sông ra biển. Hành trình cũng đầy gian nan, vừa bị bắn, vừa bị phía hải quân VNCH cản trở. Cuối cùng cũng ra tới biển.
Cuốn phim Last Days in Vietnam chỉ chú trọng nhiều tới cảnh ra đi từ Toà Đại Sứ, không có cảnh tới Hạm Đội 7; một phần cảnh tới USS Kirk, và ít hơn về quang cảnh trên Hạm Đội Việt Nam. Hoàn toàn vắng bóng cuộc ra đi theo các ngả 1 và 5. Ấy là chưa kể cuộc di tản của không quân VNCH, trước đó các phi công đã được lệnh lái một số phi cơ chiến đấu qua Thái Lan.
Người khổng lồ chậm chạp
Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, sau khi phi trường Tân Sân Nhứt bị pháo kích vào đêm 28 rạng sáng 29, phá hư một số máy bay, đường băng, và hai Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ thiệt mạng tại khu vực DAO, chỉ còn kế hoạch cuối cùng được thi hành: Di chuyển bằng trực thăng từ Toà Đại Sứ ra Hạm Đội 7. Mật hiệu tập trung để ra đi bằng mẩu tin “thời tiết Sài Gòn nóng 105 độ F và đang lên”, tiếp theo là bài White Christmas được phát đi trên đài radio quân đội Mỹ vào khoảng hơn 10 giờ sáng 29. Những ai đợi lúc đó mới rời nhà, coi như quá trễ. Trước Toà Đại Sứ đã đông nghẹt, khó chen chân vào. Theo nhân chứng Jim Kean, sĩ quan chỉ huy Đại Đội C Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ canh giữ Toà Đại Sứ, số đông lúc đó khoảng 10 ngàn người.
Thi hành một công tác lớn, dù là cỡ chiến dịch, thường chỉ do một bộ chỉ huy ra lệnh. Kế hoạch của Mỹ rút khỏi VNCH vào ngày cuối cùng liên hệ tới nhiều cơ quan, nhiều cấp chỉ huy khác nhau, ở rải rác trên nửa địa cầu, trải rộng 12 múi giờ. Vì thế, đã gặp nhiều trục trặc và chậm trễ đáng tiếc. Tổng Thống Ford và Ngoại Trưởng Kissinger trực tiếp theo dõi, và ra chỉ thị từ Bạch Ốc. Đón người là Hạm Đội 7, chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, dưới quyền bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương ở Hawaii. Phương tiện di chuyển và nhân sự thi hành thuộc Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, chỉ huy từ chiến hạm Okinawa. Người chỉ huy tại hiện trường Sài Gòn là Đại Sứ Martin.
Sau khi tự mình tới Tân Sơn Nhứt quan sát những thiệt hại do cộng sản pháo kích gây ra vào hồi sáng sớm, Đại Sứ Martin đồng ý di tản theo kế hoạch cuối cùng bằng 75 trực thăng của TQLC, chở người từ Toà Đại Sứ ra thẳng Hạm Đội 7. Một số người không thể vào được Toà Đại Sứ đã được bốc từ các địa điểm khác bằng trục thăng nhỏ, đưa vào khu DAO ở TSN, lên trực thăng lớn ra Hạm Đội 7. Bức hình nổi tiếng thế giới, chụp những người nối đuôi nhau trên cầu thang dẫn lên trực thăng, nhiều người vẫn tưởng là đậu trên nóc Toà Đại Sứ. Thật ra, đó là toà nhà ở số 22 đường Gia Long, bên dưới là trụ sở USAID, tầng trên cùng do CIA sử dụng.

Kế hoạch “Frequent Wind” được chính thức loan báo bắt đầu vào lúc 10:51 sáng 29 tháng Tư. Nhưng vì các cấp chỉ huy mỗi thành phần trách nhiệm phải liên lạc, thảo thuận và xác nhận với nhau, rồi cấp thừa hành phải đợi lệnh từ cấp chỉ huy trực tiếp của mình. Kết quả là mãi tới 12:15 PM kế hoạch mới được lệnh thi hành. Nhưng vẫn còn điều cần làm sáng tỏ, ví dụ, giờ nào là giờ chính thức; giờ GMT, giờ Washington, giờ Hawaii, giờ Okinawa, hay giờ Sài Gòn? 

Rồi vì quá nhiều thông tin viễn liên được gửi qua gửi lại giữa các cấp chỉ huy, hệ thống truyền tin bị quá tải, trục trặc. Cuối cùng, đến 3 giờ chiều, kế hoạch mới thực sự bắt đầu. Chiếc CH-53 đầu tiên bốc người từ Toà Đại Sứ đáp xuống tầu Blue Ridge vào lúc 3:40. Nếu không có những trục trặc chậm trễ này, khoảng thời gian phí phạm từ gần 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, đã giúp được hàng ngàn người đi thoát.
clip_image004
Tự mình làm con tin
Qua lời phát biểu của các viên chức xuất hiện trong Last Days in Vietnam, cũng như theo quan điểm của một số bài điểm phim, Đại Sứ Martin là một người thiển cận, không biết rõ tình hình, và cứng đầu. Mãi đến những ngày cuối cùng, ông vẫn không chịu thừa nhận tình trạng tuyệt vọng của VNCH, không chính thức cho thi hành cuộc triệt thoái khỏi VN. Và cho đến ngày chót, ông vẫn cưỡng lại lệnh ra đi, cố ở lại cho đến lúc không thể trì hoãn thêm.

Người viết bài này nghĩ rằng Đại Sứ Martin là một người có tinh thần trách nhiệm cao, sáng suốt, và rất nặng tình với người Việt Nam.

Mọi người thừa biết, không có võ khí của Nga, Tầu, miền Bắc không thể đánh miền Nam, và không có sự giúp đỡ của Mỹ, miền Nam không thể ngăn được bước tiến của miền Bắc. Ngay cả những nước mạnh hơn, và trong thời bình, như Tây Đức và Nam Hàn, mỗi nơi cũng cần tới mấy chục ngàn quân Mỹ đồn trú thường trực, để đối phó với cộng quân khi cần. Cho nên, giây phút Mỹ chính thức cuốn gói rời Sài Gòn, là tín hiệu toàn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Xã hội sẽ náo loạn, ngay cả người Mỹ cũng khó rút đi an toàn. Đợi cho đến sáng 29, sau khi có điện văn chính thức của tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, yêu cầu Mỹ rút trong vòng 24 giờ, Đại Sứ Martin mới chính thức thi hành kế hoạch di tản. Như vậy, trên danh nghĩa, Mỹ ra đi vì bị đuổi, không phải tự ý bỏ đi. Sau này, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao đuổi Mỹ trong tình trạng nguy ngập như thế, ông Mẫu cho biết đã làm theo yêu cầu của Đại Sứ Martin.
Chiều 29 tháng Tư, Toà Đại Sứ có hai bãi đáp dành cho hai loại trực thăng CH-46 trên nóc nhà, và CH-53 dưới sân đậu xe, sau khi đã đốn một cây me lớn. Washington chỉ thị Đại Sứ Martin ra đi sớm, và người Mỹ đi ưu tiên. Ông Martin không chống lại lệnh thượng cấp, nhưng chần chừ không chịu đi. Đồng thời, quy định người đi trên mỗi chuyến bay theo tỉ lệ khoảng 10 người có một người Mỹ. Ngoài ra, một số nhân viên toà đại sứ Nam Hàn, đã vào được Toà Đại Sứ Mỹ, luôn yêu cầu được ưu tiên ra đi, nhưng chỉ được đối xử như mọi người.

Phi công định ngừng cầu không vận khi trời tối. Toà Đại Sứ yêu cầu tiếp tục, cam kết có đủ ánh sáng, bằng cách gom một số xe hơi lại, cùng chạy máy, mở đèn pha chiếu thẳng vào bãi đáp. Hơn 9 giờ rưỡi tối, có lệnh từ Hạm Đội 7 chấm dứt kế hoạch vào lúc 11 giờ. Ông Đại Sứ vẫn yêu cầu tiếp tục. Khoảng nửa đêm, lại có lệnh chỉ còn 20 chuyến bay nữa, trong khi vẫn còn 850 người chờ được bốc, chưa kể 225 Quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến. Bên ngoài, vẫn còn hàng chục ngàn người.

Khoảng 4 giờ sáng 30 tháng Tư, Đại Uý phi công Gerald L. “Gerry” Berry, được lệnh đáp chiếc CH-46 trên nóc Toà Đại Sứ, và phải đợi đến khi Đại Sứ Martin lên máy bay, mới được cất cánh. Ông Martin vĩnh biệt nhiệm sở lúc 4:58 phút. Sau ông, chỉ còn những chuyến bay chở Thuỷ Quân Lục Chiến ra đi. Ông Martin đã tự biến mình thành con tin, để Bạch Ốc không thể ngừng sớm cuộc di tản. Tuy nhiên, ông đã không thành công hoàn toàn; số người kẹt lại trong khuôn viên Toà Đại Sứ khoảng trên dưới 400.

Tư Lệnh Hạm Đội 7, Phó Đô Đốc George Steele, cũng có cùng quan điểm:
“Một điều không được biết nhiều là Đại Sứ Martin tìm cách đề mang đi một số lớn người Việt từ Toà Đại Sứ. Nó có vẻ như một con số bất tận, và người cùng máy móc của chúng tôi bắt đầu thấm mệt…Tôi không muốn cho bắt ông. Nhân vật số ba của Đại Sứ Quán đáp xuống Blue Ridge xác nhận báo cáo rằng Đại Sứ bệnh và kiệt sức. Qua lòng thành đối với các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta, ông đã cố gắng giữ cho cuộc di tản kéo dài bất tận, và theo quan điểm của tôi, ráng giữ cho nó tiếp tục bằng cách tự mình không ra đi” (*).

Phép lạ bị lãng quên
Trong một bài phổ biến trên RFA sau khi xem Last Days in Vietnam, Tổng Biên Tập của đài này là nhà báo lão thành Dan Southerland viết:
Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage, khi đó 30 tuổi, sĩ quan cố vấn của hải quân Việt Nam, về sau đảm nhiệm những chức vụ cao cấp trong Bộ quốc phòng và Bộ ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống Reagan và Bush.
Armitage làm việc chặt chẽ với hạm trưởng tàu Kirk cùng các sĩ quan hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt Nam cùng với mấy chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy khỏi Việt Nam. 

Đài Truyền thanh Quốc gia (NPR của Hoa Kỳ) trong phóng sự riêng về chiến hạm USS Kirk, đã viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người chen chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích được, tàu khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một phép lạ khi đoàn tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đã vượt được cả ngàn dặm về hướng đông để đến được bờ bến Philippines an toàn.
Nếu gọi đây là “phép lạ” thì người viết bài này, nhờ may mắn có mặt trên chiến hạm HQ-3, soái hạm của đoàn tầu Việt Nam, có thể nói rõ những ai đã làm được phép lạ này, và họ đã bị lãng quên ra sao.

Sau này, xem các bộ phim The Fall of Saigon, Lucky Few, Last Days in Vietnam, tôi mới được biết Đại Tá Hải Quân Đỗ Kiểm, là người được trao trách nhiệm tổ chức đưa toàn bộ hạm đội VN ra đi, để khỏi rơi vào tay cộng sản. Trên HQ-3, tôi cứ đinh ninh Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh là người chỉ huy chuyến đi. Trên tầu, còn nhiều tướng lãnh cao cấp hơn, nhưng chỉ thấy Tướng Minh (thuỷ thủ gọi là “Đô đốc Minh” – hình như trong hải quân, ai đeo sao cũng được gọi là “Đô Đốc”) qua lại, đôn đốc, ra chỉ thị, hay lên tiếng trên hệ thống loa phát thanh. Chiều 30 tháng Tư 1975, ba chục chiếm hạm của VNCH tập trung ở Côn Sơn, đa số chở đầy người tị nạn, chưa biết sẽ đi đâu. Được hỏi, Tướng Minh nói vẫn chưa biết đi đâu. 

Ông thêm: Có một sĩ quan liên lạc sắp đến từ Hạm Đội 7, ông này sẽ cho biết mình đi đâu. Với thái độ phấn khởi, Tướng Minh tiết lộ thêm: “Tay” này còn trẻ, rất có cảm tình với Hải Quân VN, tên là Richard Armitage, biết nói tiếng Việt, có tên Việt là Trần Văn Phú, vì thánh tổ hải quân VN họ Trần, Văn là tên đệm của đa số đàn ông VN, Phú là giầu = rich, từ tên Richard. Khi ông Armitage, thường phục, từ tầu liên lạc nhỏ leo lên HQ-3, đã được Tướng Minh chào đón nồng nhiệt. Sáng 01 tháng 05, sau khi vớt thêm một số người từ Côn Sơn, cũng như một số người xuống tầu nhỏ trở về, đoàn tầu được lệnh nhổ neo, trực chỉ Philippines.

Nhìn toàn cảnh, đoàn chiến hạm VNCH xếp hàng ba, mỗi hàng 10 chiếc, cùng di chuyển trên mặt nước yên lặng xanh như thuỷ tinh, giống như trong một cuộc thao diễn khổng lồ, rất ngoạn mục. Ban đêm, đoàn tầu lên đèn sáng trưng, như cả một thành phố di chuyển. Nhưng thực trạng, đó là những chiếc tầu rất cũ, Mỹ đã phế thải trước khi viện trợ cho VN tái sử dụng. Không hiểu trong tài khoản viện trợ, chúng đã được định giá ra sao. Có thể dân Mỹ vẫn tưởng, tiền thuế của họ đã được dùng để mua tầu mới viện trợ cho VN. Đoàn tầu di chuyển rất chậm, có chiếc phải ròng dây kéo đi. Có chiếc bị nước vào, phải phân chia người tị nạn sang các tầu khác, rồi bị bắn chìm. 

Đi từ Côn Sơn đến Phi, bình thường, chỉ mất hai ngày hai đêm. Đoàn tầu Việt Nam đã phải đi ròng rã trong một tuần.

Hộ tống hạm Mỹ USS Kirk đã hướng dẫn, săn sóc, tận tình giúp đỡ, tiếp tế thuốc men và thực phẩm. Nhưng Hạm Trưởng Jacobs, cũng như sĩ quan liên lạc Armitage, không phải là các nhà phù thuỷ có tài hô phong hoán vũ, “bốc” cả đoàn tầu với 30 ngàn người tị nạn đem từ Việt Nam qua Phi. Cái “phép lạ” làm được công việc này, chính là đoàn thuỷ thủ Hải Quân VNCH.

Đại tá Đỗ Kiểm cho biết, chủ đích của kế hoạch là đem tất cả đoàn tầu ra đi, và thuỷ thủ cùng thân nhân đi càng nhiều càng tốt. Nhưng trước ngày đi, trong khi tướng lãnh và sĩ quan cao cấp biết trước để chuẩn bị, tổ chức cho thân nhân và bạn hữu ra đi, tất cả thuỷ thủ bị cấm trại trăm phần trăm. Trước khi ra đi, họ chỉ được vài giờ về đón gia đình. Sợ không sửa soạn kịp, hoặc không kịp trở lại sẽ mang tội đảo ngũ, nhất là chưa biết sẽ đi đâu, đa số quyết định đi luôn. 

Hôm sau tại Côn Sơn, sau khi biết lệnh đầu hàng, một số đã xuống tầu nhỏ trở về.

Những thuỷ thủ còn gắn bó với tầu, trên nguyên tắc, vì quân ngũ không còn tồn tại, họ không còn bổn phận phục vụ và tuân lệnh cấp trên. Không ai còn quyền ra lệnh, sai bảo họ nữa. Họ, đương nhiên biến thành người tị nạn, như bất cứ ai khác, muốn làm thì làm, không muốn thì thôi. Cũng chẳng còn chính quyền để trả lương cho họ. Tập thể thuỷ thủ này đã làm việc trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cả về tinh thần, và vật chất. Về tinh thần, trong khi cấp trên của họ, và cả những người ngoài không quen biết mà họ đang phục vụ, đem được gia đình, bạn hữu đi theo, riêng họ, nặng trĩu lo âu, không biết gia đình ra sao.

 Điều kiện làm việc của họ khó khăn hơn, chật chội hơn, thiếu thốn hơn, vất vả hơn, vì phải làm thay cho những người vắng mặt, và giúp đỡ hàng ngàn người tị nạn. Từ người lái tầu tới thợ máy, vẫn phải giữ cho mọi việc hoạt động đều đặn. Riêng phần việc nhà bếp gia tăng gấp bội, vừa phải phục vụ các thượng khách và gia đình, vừa phải cung cấp cơm cháo cho đồng bào tị nạn. Trong tình trạng như vậy, các thuỷ thủ vẫn cố gắng chịu đựng, làm việc trong kỷ luật, trật tự, và tinh thần trách nhiệm, đưa đoàn tầu và người tị nạn tới bến.

Thật ra, chẳng có phép lạ nào hết. Đó chỉ là thành tích đáng kính phục của các thuỷ thủ Hải Quân VNCH, những đơn vị cuối cùng trong quân lực vẫn còn hoạt động theo đội ngũ, một tuần sau lệnh đầu hàng, để phục vụ đồng bào. Trong gần 40 năm qua, đã có những cuộc gặp gỡ của đông đảo người tị nạn, để cảm ơn Hạm Đội 7, cảm ơn USS Kirk, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến, ghi ơn, hay vinh danh những người lính Hải Quân VN đã tạo thành tích được coi như “phép lạ”.
***
Trong một bài đăng trên New York Times ngày 04 tháng 09, 2014, nhà điểm phim A. O. Scott viết rằng “Bây giờ, thời gian đã qua lâu, liên lạc Mỹ Việt đã bình thường, sẽ là điều tốt nếu được nghe tiếng nói của một vài người từ phía bên kia, để được biết những người lính đã suy nghĩ như thế nào khi họ vào Sài Gòn lúc người Mỹ ra đi”. Nhà điểm phim này chắc chưa có cơ hội xem The Fall of Saigon ra đời cách đây 20 năm.

Lúc ấy, Mỹ Việt vừa tái lập bang giao, và hai người phía bên kia đã có cơ hội lên tiếng trong phim, là Trần Văn Trà, và viên sĩ quan cấp tá chỉ huy đoàn quân tiến vào Sài Gòn. Không cần nhớ rằng chỉ hai năm trước 1975, phía bên kia đã ký vào Hiệp Định Hoà Bình Paris, quy định nhân dân miền Nam sẽ định đoạt tương lai của mình, Tướng Trà nói rằng: Mong đợi thương thuyết vào phút chót chỉ là ước mơ tuyệt vọng của những kẻ biết mình thua cuộc, chúng tôi đã dứt khoát đạt chiến thắng bằng quân sự. 

Còn viên sĩ quan cấp tá, đề cập việc binh sĩ VNCH cởi bỏ quân phục sau lệnh đầu hàng, nói: “Họ phải làm như vậy, vì biết rằng, đối với những người đã cầm súng bắn vào Quân Đội Nhân Dân, thế nào chúng tôi cũng phải tiêu diệt.” Cho nên, trong Last Days in Vietnam, không có tiếng nói của phía bên kia, là điều hay. Nếu không, nó sẽ làm hư cả cuốn phim, như để một vài con ruồi đáp vào tô phở ngon.

Last Days in Vietnam, như đã trình bầy, tuy khá hơn hai bộ phim tài liệu trước có cùng nội dung, nhưng cũng chỉ mới trình bầy được một phần, chừng ba chục phần trăm, về toàn cảnh những gì xẩy ra trong mấy ngày cuối tháng Tư cách đây 40 năm. Tuy vậy, đối với nhiều người gốc Việt, bộ phim này cũng đáng giữ làm kỷ niệm, và cho con cháu coi, để chúng biết được một phần, ông bà cha mẹ chúng đã ra đi trong hoàn cảnh như thế nào. Chẳng biết mười năm sau, trong dịp kỷ niệm 50 năm, có còn phim nào, với thêm hình ảnh mới nữa không?

Có một cảnh vào ngày cuối ở Sài Gòn, chưa ai có được, và có lẽ chẳng ai có, đã đươc Larry Berman kể trong Perfect Spy.

 Đó là cảnh diễn ra chiều 29 tháng Tư: Sau hai lần đến trước Toà Đại Sứ Mỹ mà không vào được, theo chỉ dẫn của Dan Southerland, ký giả của báo Christian Science Monitor, “Điệp Viên Hoàn Hảo” của Hà Nội là Phạm Xuân Ẩn chở Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, vốn được coi là “Trùm mật vụ” của Đệ Nhất VNCH, tới trụ sở CIA ở 22 Gia Long.

 Ông Tuyến đến đúng lúc cánh cổng đang hạ xuống, và chuyến trực thăng chót đang sửa soạn cất cánh. Được Ẩn đẩy vào, ông Tuyến chạy vội lên nóc nhà. Một cánh tay từ trực thăng đưa ra kéo bổng ông lên. Đó là tay Tướng Trần Văn Đôn, thành viên nhóm đảo chánh, đã từng hạ lệnh bắt và đầy ông Tuyến ra Côn Đảo.
——————
* “One thing not generally known is that Ambassador Martin was attempting to get large numbers of Vietnamese evacuated from the Embassy. lt appeared to be a bottomless pit, and as our men and machines began to tire … I did not want him captured. The number three man in the Embassy arrived on board the Blue Ridge and reported the Ambassador to be ill and exhausted. Through loyalty to our Vietnamese colleagues. he was going to keep that evacuation going indefinitely, and in my opinion, force it to keep going by not coming out himself.”

Mọi bài vở post lên Diễn Đàn xin Email về:
               cstd75@yahoo.com    


.



__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Khán giả rơi lệ với vở diễn cuối cùng của đoàn kịch Sống Túy Hồng

 
Khán giả rơi lệ với vở diễn cuối cùng của đoàn kịch Sống Túy Hồng
Tuesday, April 19, 2016 6:03:04 PM

FacebookPrintEmailGoogle+Twitter
Bài liên quan





Ðức Tuấn/Người Việt
FOUNTAIN VALLEY, California 

(NV) - Bức màn nhung khép lại, vở kịch “Cuối Ðời Thương Nhớ” vừa chấm dứt, trên sân khấu chỉ còn kịch sĩ Túy Hồng ngồi lại. Vừa lúc đó đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc bước nhanh ra, bà cho biết chương trình biểu diễn của đêm nay hoàn tất, và mời tất cả diễn viên cùng bước ra sân khấu để chào biệt khán giả...

Phía dưới, khán giả đứng yên, họ vẫn chưa muốn ra về, chỉ vì muốn chứng kiến giây phút cuối cùng chia tay với nghệ sĩ Túy Hồng.


Diễn viên Kim Hiền trong vai Yến Tuyết đang ôm mẹ là bà Phủ (Túy Hồng). (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Câu nói: “Ðây là giây phút cuối cùng của đoàn kịch Sống - tạm biệt mãi mãi...” của MC Ðức Tiến, đã làm nhiều người xúc động, có giọt nước mắt lăn tròn trên khuôn mặt gầy gò của nhân vật chính hôm nay, kịch sĩ Túy Hồng. Bà cho biết không cầm được xúc động bởi tình thương của khán giả, sự lưu luyến của mọi người đã làm mềm lòng người nghệ sĩ, mặc dù trước lúc bước ra sân khấu, bà dặn lòng “đừng để nước mắt rơi,” thế mà vẫn không được...

Khán giả cứ thế lần lượt bước lên sân khấu, trao tặng những bó hoa, và họ ôm hôn thắm thiết, cũng như nói lời từ biệt, chúc kịch sĩ Túy Hồng vui khỏe...

Càng về khuya chương trình càng thấm đậm, cả căn rạp đầy kín người của suất hát thứ hai, đêm diễn cuối cùng vở kịch “Cuối Ðời Thương Nhớ” của đoàn kịch Sống Túy Hồng, mọi người vẫn ngồi yên, chẳng hiểu vì kịch hay, hoặc vì tình cảm bịn rịn của khán giả dành cho nghệ sĩ Túy Hồng đã giữ chân họ lại, không muốn ra về?

Ðó là một trong nhiều hình ảnh rất xúc động của buổi diễn cuối, mà sau nhiều tháng trời dàn dựng, cuối cùng “ngày ấy đã đến,” đoàn kịch Túy Hồng đã hoàn tất trọn vẹn món quà có một không hai của họ gửi tặng đến khán giả thương yêu.
Chương trình được thực hiện đúng như dự kiến, tại rạp Saigon Performing Arts Center, thành phố Fountain Valley, hai suất trưa 1 và chiều 7 giờ tối.

Tờ chương trình ghi 1 giờ trưa và 7 giờ tối, nói là nói thế thôi, chứ thật ra cả hai suất đều ghi nhận bắt đầu khá trễ, và chương trình buổi trưa lại có nhiều tiết mục linh tinh xảy ra, nên thời gian dài hơn như dự kiến, kéo theo sự chậm trễ cho buổi diễn tối.

Thành phần ca nghệ sĩ tham gia vẫn không có gì thay đổi với các ca nghệ sĩ tên tuổi như Túy Hồng, Kim Hiền, Chí Tâm, Phượng Mai, Lâm Duy Phương, Eliza Ngô, Nhật Kim Anh, Trương Minh Quốc Thái, Ðoàn Thanh Tài, Anh Dũng, Minh Phượng, Loan Thanh, Ðức Tiến, Mai Vy, Nguyễn Tiến Dũng, Bích Thảo, Leon Vũ, Thanh Tâm, vũ đoàn Thanh Tâm, vũ đoàn Hương Tràm, đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc.

Mở đầu chương trình là trích đoạn cuối của vở bi trường kịch “Áo Người Trinh Nữ.”

Màn cuối cùng của kịch “Cuối Ðời Thương Nhớ.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nói với chúng tôi, kịch sĩ Túy Hồng cho biết: “Ðó là vở kịch đầu tiên Túy Hồng chính thức gia nhập thế giới sân khấu của đoàn ca kịch Dân Nam...”

Tiếp theo sau đó kịch sĩ Túy Hồng nhắc lại những gì đã xảy ra với đoàn kịch Sống Túy Hồng sau biến cố 1975, những gian nan, khổ cực của đoàn kịch Sống khi bắt đầu trở lại tại hải ngoại vào những năm 1976, 1977... Lúc đó có sự góp mặt của những tên tuổi gạo cội như Hùng Cường, La Thoại Tân...

Cả chương trình có hai MC, là Minh Phượng và Ðức Tiến.
Phần giữa chương trình là một vài tiết mục ca nhạc của các anh chị em ca sĩ như Bích Thảo, Nguyễn Tiến Dũng, Mai Vy, Leon Vũ...
Cuối cùng là toàn bộ bi hài kịch “Cuối Ðời Thương Nhớ,” cảm tác theo tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, biên kịch, đạo diễn: Nguyễn Thị Minh Ngọc.

Bối cảnh của kịch “Cuối Ðời Thương Nhớ” là làng quê miền Nam Việt Nam, khoảng thập niên 50-60, nội dung của kịch xoay quanh câu chuyện của cô tiểu thư Yến Tuyết (Kim Hiền đóng), cô là con gái duy nhất của bà Phủ (kịch sĩ Túy Hồng đóng), do nhẹ dạ cô Yến Tuyết bị người anh rể bà con dụ dỗ, chuốc rượu có bỏ thuốc mê, sau đó phá đời con gái của cô...
Câu chuyện từ từ đi vào những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn với nhiều câu chuyện tình cảm gây cấn bất ngờ xảy ra.

Hầu như mọi vai diễn của các anh chị em nghệ sĩ trẻ như Kim Hiền, Trương Minh Quốc Thái, Anh Dũng, Ðoàn Thanh Tài, Minh Phượng, Chí Tâm, Loan Thanh... Ðều rất trọn vẹn, mỗi người có một vị trí riêng của họ, và ai cũng làm chủ được vai trò của mình, kiểm soát được từng lời nói, hành động của mình trên sân khấu.

Tuy nhiên xuất sắc nhất vẫn là nghệ sĩ Túy Hồng, Anh Dũng, Kim Hiền, Trương Minh Quốc Thái... Họ thể hiện được tính cách nhân vật, và mang đến cho khán giả sự hồi hộp, cuốn hút, theo dõi sát từng chi tiết của vở kịch.

Mảng khác của vở kịch là từ đầu đến cuối, các diễn viên chỉ biết thể hiện trọn vai trò của mình, nội dung của kịch chỉ gói gọn trong kịch bản “Cuối Ðời Thương Nhớ” chứ không hề nhắc nhở về sự kiện đây là suất diễn cuối cùng của đoàn kịch Sống, diễn viên không tạo áp lực cho chính họ, mà ngược lại, họ đẩy tất cả “cao trào” của vở kịch về phía khán giả, để khán giả tự khám phá, và khi lên đến đỉnh điểm là những giọt nước mắt đồng cảm của người khán giả hòa vào chung với từng cử chỉ, hành động và lời nói của người nghệ sĩ đang diễn trên sân khấu.

Phần âm thanh, ánh sáng do công ty Premier Production và Bảo Lộc đảm trách phần âm nhạc phụ họa cho kịch, cũng rất tốt.

“Ðời ca hát ngày tháng cho người mua vui, đời son phấn làm mất bao ngày thơ ngây...” Ca khúc “Ánh Ðèn Màu” do ca sĩ Thanh Thúy trình bày, cứ tiếp tục vang lên mang lại cảm xúc bịn rịn cho sự chia tay giữa kịch sĩ Túy Hồng và khán giả ở những giây phút cuối cùng, khi ánh đèn sân khấu tắt hẳn, bức màn nhung khép lại.




__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Thursday, April 21, 2016

Phỏng vấn Giáo Sư gốc Việt đoạt giải Pulitzer 2016



From: 'Diep Le'
Date: 2016-04-20 18:14 GMT-07:00
Subject: Phỏng vấn Giáo Sư gốc Việt đoạt giải Pulitzer 2016
 
Phỏng vấn Giáo Sư gốc Việt đoạt giải Pulitzer 2016
Tuesday, April 19, 2016 6:26:50 PM
Bài liên quan

Thủy Phan/ Người Việt
WESTSMINTER, California (NV) – Tác phẩm “The Sympathizer” của ông Nguyễn Thanh Việt, giáo sư gốc Việt chuyên ngành Văn Học tại trường đại học University of Southern California, vừa đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết năm 2016.

Phóng viên báo Người Việt phỏng vấn Giáo Sư Việt khi ông đang có mặt tại Massachusetts để giới thiệu cuốn tiểu thuyết khác của mình, mang tên “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memoris of War.”
Chân dung Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt và cuốn sách đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết năm 2016 "The Sympathizer". (Hình: Facebook của Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt)

Người Việt (NV):
Ông cảm thấy như thế nào khi biết tin mình đoạt giải Pulitzer năm nay?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Tôi đang ở một mình trong phòng thì trang mạng Facebook và Twitter của tôi bắt đầu đưa lên các thông tin về một người gốc Việt đoạt giải Pulitzer. Tôi rất bất ngờ khi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ mọi người, đặc biệt là cả những người ở Việt Nam chưa có cơ hội đọc được sách của tôi. Mọi người rất phấn khởi khi có một tác giả gốc Việt đoạt giải năm nay.

NV: Có bao giờ ông nghĩ cuốn sách “The Sympathizer” của mình sẽ đoạt giải Pulitzer không?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện đó. Tôi thấy rất vui khi cuốn sách được xuất bản và càng thấy ngạc nhiên hơn nữa khi nhiều độc giả biết đến nó trước khi nó đoạt giải Pulitzer. Tôi không nghĩ là tác phẩm này có cơ hội thắng giải Pulitzer vì thường các tác phẩm đoạt giải trước đây không làm lung lay tâm tình của độc giả. Còn tác phẩm của tôi, tôi muốn nó có thể chạm đến trái tim người đọc.

NV: Vì sao ông lại nghĩ vậy?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Tôi dành rất nhiều thời gian suy nghĩ về con người Việt Nam mà cụ thể hơn là chiến tranh Việt Nam. Tôi nhận ra rằng mỗi cá nhân người Việt đều có cái nhìn và trải nghiệm khác nhau về cuộc chiến này. Đó chính là cách mà chiến tranh tồn tại và cách mà con người nhớ đến nó. Tôi không muốn mọi người tin rằng suy nghĩ và nhận thức của họ về cuộc chiến là đúng mà tất cả mọi người, mỗi bên, mỗi cá nhân đều có trách nhiệm với chiến tranh. Cuốn sách này không chỉ về chính trị, nó còn mang một ít chất hài hước, bi kịch, bản năng con người và bí ẩn.

NV: Về sự ủng hộ của độc giả?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Sư ủng hộ của độc giả cho thấy rằng cuốn sách này không chỉ là sự chúc mừng chỉ riêng cá nhân tôi mà còn hơn thế nữa. Giải thưởng này không chỉ là biểu tượng dành cho cộng đồng gốc Việt mà còn cho các sắc dân khác. Nó đại diện cho tất cả mọi thành phần ở Mỹ và niềm tin của họ.

NV: Ông mừng vinh dự này như thế nào?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Gia đình tôi đang ở Los Angeles nên tôi chưa thể tổ chức ăn mừng với gia đình được. Nhưng chắc chắn sẽ là có một buổi ăn mừng nho nhỏ với vợ và con của tôi khi tôi bay về lại California vào thứ Sáu này.

NV: Ông nghĩ giải thưởng này có làm thay đổi cách giảng dạy cũng như cách viết văn của ông?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Tôi viết cuốn sách này trước tiên là cho chính bản thân và niềm tin của tôi chứ không cho bất cứ ai khác. Tôi không có ý định thay đổi nó. Ngay cả cuốn sách sau “The Sympathizer” là “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memories of War” cũng được viết cùng mục đích này. Tôi vẫn làm những gì mà tôi làm. Điều khác biệt duy nhất chính là nó là phương tiện để tôi có thể chia sẻ niềm tin của tôi.

NV: Ông có lời nào với các bạn trẻ gốc Việt muốn theo đuổi con đường viết văn chuyên nghiệp?
Giáo Sư Nguyễn Thanh Việt: Tôi muốn nhắn nhủ rằng dù bạn trẻ hay già thì văn chương là một phần của lịch sử, di sản và văn hóa của chúng ta. Có một sự thật đáng buồn rằng niềm đam mê hay tìm tòi về văn chương đang dần dần bị thay thế bằng các thứ khác. Đối với các bạn muốn theo đuổi nghệ thuật văn chương, tôi khuyến khích họ lắng nghe trái tim mình và tin tưởng vào câu chuyện mà mình sáng tác.



Posted by: <vneagle_1

Wednesday, April 20, 2016

Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)


From: Quyet Nong <
Sent: Tuesday, April 19, 2016 8:23 AM
Subject: 1 DĐKTTG Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)

Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)













Trần Gia Phụng (Danlambao) - Gần đây, vào cuối năm 2012, ở trong nước xuất hiện bộ phim tài liệu dài 12 tập, mỗi tập dài 30 phút, nhan đề là “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê Phong Lan do Trung Tân Phim Tài Liệu và Phóng Sự của Đài Truyền Hình Việt Nam, phối hợp với hãng phim Truyền Hình Bản Sắc Việt Nam sản xuất, đã trắng trợn chối bỏ sự thật, thay trắng đổi đen, nhằm xóa bỏ tội ác CS trong vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Dư luận dân chúng Huế đã lên án gay gắt bộ phim nầy. Dù CS luôn luôn chủ trương bóp méo lịch sử để chạy tội; dù những nấm mồ dưới lòng đất có thể đã bị tiêu hủy qua thời gian; nhưng những nấm mồ trong tim dân chúng Huế và dân chúng Nam Việt Nam vẫn còn đó. Lịch sử vẫn còn đó. Làm sao CS chạy tội được trước lịch sử! “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”


1. Thiệt hại về nhân mạng và tài sản 

Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cho đến cuối tháng 3-1968, tổng số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH của các bên lâm chiến trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) của cộng sản (CS) là:

VNCH: 4,954 sĩ quan và binh sĩ, 14,300 thường dân. (Trong số thường dân nầy, Huế mất khoảng trên 2,000 người.) 

Cộng sản 58,373 sĩ quan và binh sĩ. 

Hoa Kỳ: 3,895 sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Hoa Kỳ (gồm tất cả quân binh chủng).

Đồng minh: 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan trong các phái bộ viện trợ quân sự tại VNCH.(Phạm Văn Sơn, sđd. tr. 35.)

Số 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm kê, trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo, kiểm kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên (VNCH và CS) kiểm soát. 

Trong cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân, tổng số thiệt hại về nhà cửa ở các thành phố ước lượng khoảng 4,5 tỷ đồng VNCH (lúc bấy giờ) theo đó: 84,983 nhà bị hư hại từ 50 đến 100%, 30,343 nhà thiệt hại tới 50%. Riêng tại Sài Gòn, 18, 507 nhà bị thiệt hại từ 50% đến 100%. (PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Sách nầy trích số liệu trên đây từ sách The Vietcong Massacre at Hue của bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press, 1976.) 

Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ nghệ lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt hại 2,985,400,000 đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)

2. Quân sự

Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, khác với chiến tranh du kích, là sự đối đầu trực tiếp công khai giữa quân lực VNCH và lực lượng CS trong đó có bộ đội chính quy Bắc Việt Nam và MTDTGP. Cuộc tổng tấn công của CS thật sự đã đạt được yếu tố bất ngờ khá cao. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28.) 

Dầu tổng tấn công bất ngờ, CS hoàn toàn thất bại, không chiếm được các thành phố như chủ trương ban đầu của CS. Nhiều nơi, CSVN phải rút về mật khu, bưng biền, rừng núi, hay tránh sang biên giới Lào và Cao Miên. 

Tài liệu CSVN sau nầy công khai xác nhận sự thất bại nặng nề của họ. “Cuối tháng 9 [1968], hoạt động quân sự của ta [CSVN] đã ngừng lại. Sau một thời gian dài liên tục tấn công vào đô thị - chỗ mạnh của địch trong điều kiện chúng đã bố phòng, lực lượng ta bị tiêu hao, bổ sung không kịp, tiếp tế khó khăn, phải rút về củng cố...” “Lực lượng vũ trang bị tiêu hao không được bổ sung. Tiếp tế lương thực rất khó khăn. Ở Tây nguyên, toàn bộ số gạo còn lại của năm 1968 chỉ còn phần ba so với số lượng tồn kho năm 1967. Dự trữ lương thực đến giữa năm 1969 chỉ đủ nuôi bộ đội ta trong khoảng một tuần...” (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và tr. 57. Lưu Văn Lợi là nhân viên phái đoàn BVN tại hội nghị Paris, sách viết ở trong nước. Bản in đưa bán ra nước ngoài, không đề nơi và năm xuất bản.)

Quân lực VNCH tuy lúc đầu bất ngờ, nhưng nhờ khả năng phản ứng nhanh lẹ, nên đã mạnh mẽ chận đứng được những đợt tấn công của CS khắp nước, gây thiệt hại lớn lao cho CS. Con số 58,373 cán binh CS tử thương có thể còn thấp so với số thực sự CSVN mất mát. 

Sau vụ Tết Mậu Thân, khi được tổng thống Hoa Kỳ gởi sang thị sát chiến trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle G. Wheeler, trong báo cáo gởi về Washington D.C., đã nhấn mạnh: “Các lực lượng võ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với một sức mạnh thần kỳ.” (Tường trình của tướng Earle G. Wheeler được tướng Yves Gras (người Pháp) trích dẫn trong bài"L'autre armée Vietnamienne, L'engagement des Vietnamiens dans la guerre d'Indochine (1945-1975)", đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một nhóm tác giả, Académie des Sciences d'Outre-Mer [Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại], Institut de l'Asie du sud-est [Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á] và Association nationale des anciens d'Indochine [Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến Binh Đông Dương] đồng xuất bản, Paris, 1985, tr. 279.) 

Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves Gras, một tướng lãnh Pháp, cũng đã viết: “Quân đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn công của phương Bắc trong Tết Mậu Thân vào tháng 2 năm 1968." (Yves Gras, bài đã dẫn.) 

Phía CS cũng rất bất ngờ về sức chiến đấu bền bĩ của quân lực VNCH. (Leo J. Daugherty, Gregory Louis Mattson, NAM, a Photographic History, New York: MetroBooks, 2001, tr. 314.) Một viên tướng CS tham gia trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã thú nhận: “Nhưng mặt khác, trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu quá cao sức thực tế ta có...” (Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, TpHCM: Nxb. Văn Nghệ Thành Phố, 1982, tr. 57.)

Một điều tàn ác là sau khi CS rút lui, dân chúng phát hiện nhiều xác binh sĩ CS bị cột vào các ổ súng phòng không bằng xích sắt, đặt trên hoàng thành bao chung quanh thành nội Huế, nghĩa là binh sĩ CS không thể trốn chạy được, mà phải chiến đấu tại chỗ cho đến chết. (Nhiều người viết, Technology and the Air Force: A Retrospective Assessement, Washington D.C: Air Force History and Museums Program, United States Air Force, 1997, tr. 129.)

3. Chính trị

Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS vào các thành phố VNCH tạo ra những phản ứng khác nhau tại Việt Nam và Hoa Kỳ. 

Cộng sản vi phạm quyết định hưu chiến, mở cuộc tổng tấn công trong dịp Tết thiêng liêng trên toàn cõi miền NVN, tàn sát dân chúng vô tội làm cho dân chúng kinh sợ. Chẳng những dân chúng không hưởng ứng lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của CSVN, mà dân chúng còn trốn tránh vùng CS tạm chiếm, bỏ chạy về phía quân đội VNCH và quân đội Mỹ. Uy tín của quân đội VNCH và chính phủ VNCH lên cao trong lòng dân chúng Việt Nam.

Ở ngoài nước, cuộc tổng tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân (1968) của CS đã gây một tiếng vang lớn trên thế giới, tạo một đòn tâm lý khá nặng đánh vào dân chúng Hoa Kỳ. Việc quân đội CS đột kích vào các thành phố NVN khiến cho dân chúng Hoa Kỳ, ở xa Việt Nam nửa vòng trái đất, nghĩ rằng tình hình quân sự VNCH quá xấu, nên họ lo ngại về số phận của thân nhân trong quân đội Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Việt Nam. 

Đó là cơ hội tốt cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ hoạt động mạnh. Những gia đình có thân nhân thuộc thành phần động viên, tham gia tích cực các cuộc biểu tình, vận động rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Phong trào phản chiến Hoa Kỳ luôn luôn khuếch đại và bôi đen những hoạt động của quân đội Đồng minh và VNCH. 

Ví dụ tấm hình đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia xử tử tại chỗ ngày 1-2-1968 một cán binh CS trên đường Sư Vạn Hạnh Sài Gòn, gần chùa Ấn Quang. Đại tá Loan nổi giận vì nguyên cả gia đình của một sĩ quan Cảnh sát, thuộc quyền của ông, ngay trước đó đã bị cán binh nầy giết chết. (Leo J. Daugherty, Gregory Louis Mattson, NAM… sđd. tr. 266.) 

Tấm hình nầy do Eddie Adams chụp. Do tấm hình nầy, Eddie Adams được giải Pulitzer về báo chí ở Hoa Kỳ năm 1969. Tấm hình nầy gây những ảnh hưởng bất lợi về chính trị cho VNCH. Cộng sản và phản chiến Hoa Kỳ lợi dụng tấm hình nầy để tuyên truyền đòi Hoa Kỳ rút quân. 

Về sau, tác giả tấm hình, Eddie Adams đã viết trên tuần báo Time, số Chủ nhật 24-6-2001 như sau: “Bức ảnh này đã thực sự làm xáo trộn đời ông [Nguyễn Ngọc Loan]. Ông không bao giờ trách cứ tôi. Ông nói nếu tôi không chụp tấm hình này, thì người khác cũng sẽ chụp, nhưng tôi cảm thấy áy náy với ông và với gia đình ông trong một thời gian dài. Tôi vẫn giữ liên lạc với ông. Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau cách đây khoảng sáu tháng, khi ông rất yếu. Khi được tin ông mất, tôi gửi hoa phúng điếu và đã viết, "Tôi xin lỗi. Có những giọt nước mắt trong mắt tôi.[Tôi đang khóc ông.]" 

Trong khi đó, phong trào phản chiến Hoa Kỳ cố tình bỏ qua những cuộc khủng bố và tàn sát của CSVN, nhứt là vụ tùng xẻo dã man và chôn sống người tại Huế trong Tết Mậu Thân. Một ký giả Đức có mặt tại Huế, chứng kiến cảnh một toán phóng viên truyền hình Mỹ thờ ơ nhìn các mồ chôn tập thể. Khi có người hỏi tại sao không quay cảnh các mồ tập thể nầy thì một phóng viên Mỹ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng.” (UweSiemon-Netto,Đức - A repoter’s love for a wounded people, California: 2013, tr. 252.)

Khi rút lui, quân CS đã đưa đi theo một số nhân vật tên tuổi như thượng tọa Thích Đôn Hậu (chùa Từ Đàm, Huế), các ông Lâm Văn Tết, Trịnh Đình Thảo (Sài Gòn)...

4. Những thay đổi quan trọng

Để tăng cường sức mạnh quân sự, tướng Westmoreland xin chính phủ Mỹ tăng viện khẩn cấp một trung đoàn TQLC và một lữ đoàn Nhảy dù thuộc sư đoàn 82. Ngày 13-2-1968, bộ Quốc phòng Mỹ chấp thuận tăng 10,500 quân. (John S. Bowman, sđd. tr.20.)

Mười ngày sau, khi đại tướng tham mưu trưởng Liên quân Earle Wheeler đến Việt Nam, ngày 23-2-1968, đại tướng Wesmoreland đưa ra đề nghị tăng thêm 206,000 quân đến Việt Nam, nhưng đề nghị nầy không được chấp thuận. (Stanley Karnow,Vietnam, a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 551.)

Cũng trong ngày 23-2-2968, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh thay hai tư lệnh quân đoàn cùng một lúc. Thiếu tướng Lữ Lan thay thiếu tướng Vĩnh Lộc làm tư lệnh Quân đoàn II, và thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng thay thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh giữ chức tư lệnh Quân đoàn IV. 

Ngày 27-2-1968, tướng Edward Lansdale (trở lại Việt Nam làm việc tại Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn từ 1965), đề nghị với đại sứ Mỹ là Bunker giúp củng cố quyền lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhằm chấm dứt tình trạng lưỡng đầu trong chế độ VNCH, tức bắt đầu giảm quyền của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. (Chính Đạo, Mậu Thân..., tr. 348.)

Trong tháng 2-1968, chính quyền VNCH ra lệnh “bảo vệ an ninh”, một hình thức giam lỏng, một số nhân vật chính trị, như thượng tọa Thích Trí Quang, đại đức Thích Hộ Giác, đại đức Thích Liễu Minh, luật sư Trương Đình Du, Âu Trường Thanh, Trần Thúc Linh, Hồ Thông Minh (mới từ Pháp về), nhằm tránh bị CS lợi dụng, theo giải thích của chính quyền. Ngày 11-4-1968, Hồ Thông Minh và Trương Đình Du được thả ra. Hồ Thông Minh bị trục xuất về Pháp, còn Trương Đình Du bị bắt lại ngày 1-5-1968. Việc “bảo vệ an ninh” cho các tu sĩ chấm dứt ngày 30-6-1968. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 226.) 

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara, từ chức từ ngày 29-11-1967, nhưng sau biến cố Tết Mậu Thân mới rời chức vụ ngày 29-2-1968, và được Clark Clifford thay thế. (Clifford làm việc đến khi tân tổng thống Richard Nixon nhận chức 20-1-1969.)

Trong cuộc họp báo ngày 22-3-1968, tổng thống Johnson tuyên bố hai sự thay đổi quan trọng: 1) Sẽ đưa đại tướng Westmoreland lên làm tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ từ ngày 2-7-1968 và đại tướng Creighton W. Abrams sẽ thay thế Westmoreland tại Việt Nam. 2) Đô đốc Ulysse Grant Sharp, tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ giải ngũ trong tháng 7-1968 và đô đốc John McCain, Jr. sẽ lên thay. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 103.) 

Về phía CS, do MTDTGP thiệt hại nặng nề trong cuộc tổng tấn công. Lãnh đạo đảng LĐ ở Hà Nội nhân cơ hội nầy, đưa cán bộ và bộ đội từ BVN vào NVN điền thế, củng cố và điều khiển chặt chẽ MTDTGP. Nói cách khác, từ đây MTDTGP không còn những thành phần tuy đối kháng với chính thể NVN, nhưng chưa hoàn toàn quy phục Hà Nội. Cũng từ đây, CS Hà Nội nắm phần điều khiển 100% MTDTGPNVN.

Tuy CS thất bại về quân sự trong cuộc tổng tấn công, nhưng CS đã gây được tiếng vang trên thế giới và đặc biệt tại Hoa Kỳ, nơi đang diễn ra phong trào phản chiến, đòi hỏi chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam. Phong tào phản chiến Hoa Kỳ sẽ rất dữ đội trong năm sau, 1969.

Kết luận

Lúc đầu, đảng LĐ tức đảng CSVN tìm cách chối bỏ trách nhiệm về cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân. Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi của một ký giả Tây phương vào năm 1969, bộ trưởng bộ Quốc phòng Bắc Việt Nam lúc đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chối rằng Hà Nội không tổ chức tổng tấn công Tết Mậu Thân: "Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt trận [Dân tộc Giải phóng] thực hiện." (Don Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: "We had nothing to do with it. The [National Liberation] Front put it on.") Tuy nhiên, theo những tài liệu càng ngày càng được phát hiện rõ ràng, cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân hoàn toàn do đảng LĐ ở BVN chủ trương. 

Đảng LĐ bất kể truyền thống cổ truyền về ngày Tết dân tộc, không tôn trọng những cam kết về hưu chiến, bất ngờ tổng tấn công để giành lấy thắng lợi. Đảng LĐ không thành công trên chiến trường. Miền NVN vẫn đứng vững. Đảng LĐ không tổ chức được cuộc tổng khởi nghĩa. 

Dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa của CS, bỏ vùng CS tạm chiếm, chạy về phía quân đội VNCH. Dân chúng lại ghê sợ những sáng kiến giết người dã man của cán bộ CS, nhất là việc chôn sống người. Cuộc tổng tấn công và tàn sát của CS là một thông điệp đỏ gây khủng bố và khiếp sợ cho dân chúng thành phố NVN đối với CS. Từ đây, chẳng những dân chúng nông thôn mà cả dân chúng thành phố cũng rất hãi hùng bàn tay sắt máu của CS. Đó là lý do vì sao khi ra hải ngoại, một số người có thân nhân bị CS tàn sát, không dám lên tiếng tố cáo CS, vì sợ bà con trong nước bị CS giết tiếp. 

Nói chung, dầu thất bại về quân sự, CS Hà Nội đã đạt được các dự tính chính trị quan trọng qua biến cố Tết Mậu Thân, gây chấn động mạnh ở Hoa Kỳ khiến những cuộc biểu tình phản chiến càng ngày càng gay gắt. 

Một điểm cần ghi nhận thêm là để xóa dấu vết tội ác trong biến cố Mậu Thân tại Huế, sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, CS tuyên phong “liệt sĩ” cho một số người bị CS giết, đổ tội cho “Mỹ Ngụy” chứ không phải CS sát hại. Đểu đến thế là cùng. Gia đình những “liệt sĩ” nầy không dám từ chối sự phong tặng vì sợ CS tàn sát thêm lần nữa. 

Gần đây, vào cuối năm 2012, ở trong nước xuất hiện bộ phim tài liệu dài 12 tập, mỗi tập dài 30 phút, nhan đề là “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê Phong Lan do Trung Tân Phim Tài Liệu và Phóng Sự của Đài Truyền Hình Việt Nam, phối hợp với hãng phim Truyền Hình Bản Sắc Việt Nam sản xuất, đã trắng trợn chối bỏ sự thật, thay trắng đổi đen, nhằm xóa bỏ tội ác CS trong vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Dư luận dân chúng Huế đã lên án gay gắt bộ phim nầy. 

Dù CS luôn luôn chủ trương bóp méo lịch sử để chạy tội; dù những nấm mồ dưới lòng đất có thể đã bị tiêu hủy qua thời gian; nhưng những nấm mồ trong tim dân chúng Huế và dân chúng Nam Việt Nam vẫn còn đó. Lịch sử vẫn còn đó. Làm sao CS chạy tội được trước lịch sử! “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” 

Hết

Những phần đã đăng bởi Danlambao:


(Toronto, 17-4-2016)












__._,_.___

Posted by: <vneagle_1

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List