QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Friday, April 10, 2015

Miền Nam VIỆT NAM lọt vào tay CỌNG SẢN là vì DO THÁI.


Date: Mon, 6 Apr 2015 15:59:10 -0500
Subject: Miền Nam VIỆT NAM lọt vào tay CỌNG SẢN là vì DO THÁI.
From: lehuutu0605@gmail.com


1) Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.
Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được. Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.


2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận.
Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (tức hủy bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái).

Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẫn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản Hồi Ký Bên Giòng Lịch Sử của ông cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.
Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).
- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton…
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh…
Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ ..

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái.
Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine.
Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa.
Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết -bỏ rơi miền Nam- để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam Việt Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson.
Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây (2009), vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc cơ hội thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng đắc cử Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh quốc gia.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)… Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.
Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:
“Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:
“Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là một bãi hoang”.

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.
Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua!) vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”).
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh.

Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh “nướng quân” hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland!), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng “Đồng Minh tháo chạy” (từ ngữ của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng!) bỏ rơi VNCH.
Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận.

Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hãn!) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ”Về miền đất hứa / Exodus” của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ”Bài học Israel (Do Thái)“.
Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay!

Phạm Trần Hoàng Việt

Posted by: =?UTF-8?B?TkdVWeG7hE4gVsOCTiBUw5lORw

TRUNG TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG.


-----Original Message-----
From: Chau Vu 
Sent: Wed, Apr 8, 2015 11:26 pm
Subject: [DiendanDanToc] TT Ngô Quang Trưởng.
 
TRUNG TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG.
 
Thưa qúi vị,
Nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Hận lần thứ 40, trong một bài viết nói về tầm quan trọng của địa danh Ngã ba Thạnh Mỹ và quận lỵ Thượng Đức, ký giả Lữ Giang đã có những nhận xét khá gay gắt về tầm nhìn chiến lược của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, cụ thể là về việc tướng Ngô Quang Trưởng đã cố ý bỏ ngỏ, đã không có kế hoạch và quyết tâm bảo vệ cái nút chặn sinh tử cho vận mệnh của Miền Nam VN này.
Nhận xét trên đây của ký giả Lữ Giang đã gặp phải sự chống đối khá gay gắt của một số người.
Các lý lẽ bênh vực và các tình cảm dành cho tướng Ngô Quang Trưởng hầu hết đều đã dựa trên tiếng đồn về đức tính thanh liêm trong sạch của vị trung tướng khả kính này.
Đó là một tình cảm rất phổ thông, rất thường tình, nhưng lại hoàn toàn phiếm diện và lạc đề.
Xin đan cử vài thí dụ:
-            Khi đề cập tới… nhạc sĩ Phạm Duy chẳng hạn. Chúng ta chỉ nên phê phán về khả năng sáng tác và và nhất về các giá trị nghệ thuật cũng như sự trân qúi mà mọi người đã dành cho các nhạc phẩm của ông. Còn những câu chuyện về đời tư, ăn chè tại Nhà Bè chẳng hạn, hay ngay cả việc ông “đón gió trở cờ” nữa, cũng không thể phủ nhận hay làm lu mờ các giá trị nghệ thuật của các nhạc phẩm bất hủ của người nhạc sĩ tài ba này.
-            Thi sỉ Trần Tế Xương cũng đã “thành thật khai báo” rằng “cao lâu thường ăn quịt, thổ đĩ rặt chơi lường”.
Nhưng không vì thế mà địa vị nhà thơ trào phúng của ông đã không được tôn trọng và đề cao trong văn học sử.
Tóm lại, địa vị của một thi sĩ, một nhạc sỹ chính yếu là ở giá trị của các nhạc phẩm và các thi phẩm của họ, chứ không phải ở lối sống của họ.
Đối với một vị tướng lãnh cũng vậy, không thể căn cứ vào đời tư của họ để phán xét về khả năng lãnh đạo chỉ huy, về tài thao lược và về tầm nhìn chiến lược chiến thuật của các vị đó.
Đồng ý là có Tài và cũng cần phải có Đức nữa, nhưng ở đây khi phê phán một cá nhân trong lãnh vực chuyên môn của họ, Tài Nghệ luôn luôn phải là yếu tố chủ chốt.
Nhân đây cũng xin nói về một chuyện rất không đáng nói tới. Đó là khi chống đối các nhận xét và các quan điểm của ký giả Lữ Giang, cụ thể là trong vấn đề tướng Ngô Quang Trưởng hiện nay. Một vài người đã đề cập tới ngoại hình của ông để châm biếm và nhục mạ. Là người có trình độ học thức tối thiểu, chúng ta đều biết đó là một thái độ rất tiểu nhân, rất bần tiện và rất đáng khinh bỉ.
Cũng như cá nhân tôi, nhiều người cũng có rất nhiều ý kiến bất đồng với người ký giả này, nhưng hầu hết mọi người đều đã tôn trọng và cảm phục về các kiến thức và tầm hiểu biết sâu rộng của ông.
 
Riêng trong trận đánh Thượng Đức này, tôi cũng đã có cùng quan điểm với ký giả Lữ Giang vì các lý do sau đây:
-            Dẫy núi Bạch Mã là một chiến lũy thiên nhiên vô cùng kiên cố, quân đội Miền Bắc chỉ có thể vượt qua tại hai địa điểm là Đèo Hải Vân và Thượng Đức.
-            Giữ vững được Thượng Đức rồi triệt thoái khỏi Quảng Trị-Thừa Thiên, việc phòng thủ Miền Nam VN sẽ trở nên dễ dàng và khả thi hơn gấp bội.
-            Khi biết Bắc Việt sắp đánh chiếm Thường Đức, nhưng tướng Ngô Quang Trưởng chỉ tăng cường một tiểu đoàn BĐQ để phòng thủ mà thôi.
-            Tuy nhiên, điều quan trọng hơn nữa là gần như ngay sau khi Thượng Đức vừa thất thủ thì Sư Đoàn Nhảy Dù đã được sử dụng để tái chiếm địa điểm chiến lược này.
-            Ai ai cũng đều đã biết, việc tái chiếm một vị trí sẽ gian nan cực khổ hơn việc phòng thủ gấp bội. Cho nên mặc dầu với những cố gắng và tinh thần qủa cảm phi thường, và đã phải hy sinh hơn một nữa số quân tham chiến, các chiến sỹ tinh nhuệ nhất của QLVNCH đã không hoàn thành được nhiệm vụ giao phó.
-            Không còn SĐ Dù và SĐ Thủy Quân Lục Chiến để tái chiếm Ban Mê Thuột đã kéo theo sự sụp đổ mau lẹ của Miền Nam VN.
 
Vũ Linh Châu.



__._,_.___

Posted by: Lu Giang 

Wednesday, April 8, 2015

ĐỖ PHỦ VÀ TƯỜNG THẮNG ĐÚNG LÀ LŨ GÁC CỬA CHO TRUYỀN THÔNG VGCS

 
ĐỖ PHỦ VÀ TƯỜNG THẮNG ĐÚNG LÀ LŨ GÁC CỬA CHO TRUYỀN THÔNG VGCS

Image result for hình trúc hồ

Image result for hình đỗ phủ và
 tường thắng         Inline image

 
Nói đến SBTN thì đương nhiên hầu như tất cả người Việt Nam tỵ nạn Việt Gian Cộng Sản đã biết rằng -cái cơ quan truyền thông đó-  cả từ hàng chục năm nay,  đã được những người Việt Nam tỵ nạn cộng sản chân chính nhắc nhở cho nhau biết rằng nó là “SINH BẮC TỬ NAM” (nghĩa là nguỵ quân VGCS được tuyển ở phía Bắc để cho vượt Trường Sơn vào xâm lược Việt Nam Cộng Hoà, phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng, chủ nghĩa thực dân đỏ Nga – Tàu.  Nhưng đã bỏ xác lại, vì đã bị Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà -vì bảo vệ Việt Nam Cộng Hoà- đã cho những bài học đích đáng.  Một số không ít đã sớm tỉnh ngộ nên đã được Chính Quyền Việt Nam Cộng Hoà khoan dung cho chiêu hồi, cho học tập cả văn hoá lẫn nghề nghiệp và được sống tự do với nghề nghiệp  và kiến thức đã có của mình, để sống một cuộc sống xứng đáng là một Công Dân Của Việt Nam Cộng HoàNghĩa là thay đổi thân phận từ một tên BINH NÔ đói khổ ở phía Bắc, bán xương máu cho các mẫu quốc Nga Tàu, để trở thành một người Việt Nam chân chính mà TÔN CHỈ SỐNG LÀ:  TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM. Để từ đó họ có điều kiện  trả ơn nghĩa với Tiền Nhân và có điều kiện bỏ công sức, tài năng  làm đẹp lên, cũng như bảo vệ những  gì Tiền Nhân để lại cho.)
Dù biết như vậy, nên đã từ lâu Chính Khí Việt không bao giờ NGHE NHỮNG GÌ LÀ SẢN PHẨM CỦA SBTN,  Có nghĩa là TẨY CHAY TUYỆT ĐỐI!!!
Nhưng mới cách đây vài hôm, một bạn đọc của website Chính Khí Việt (www.chinhkhiviet.net) khi gặp ở quán Phở Số 1, đường Jackson Seattle, đã hỏi Chính Khí Việt rằng, đã nghe buổi Hội Luận của Đỗ Phủ và  Tường Thắng nói về vấn đề  thế giới cũng như Việt Nam khá hấp dẫn.  Buổi nói đó vào ngày 24 tháng 3, 2015. 
 https://www.youtube.com/watch?v=Cc3O8ldN8v4&list=PLu4zcWA5VP41WNaQU9R3RuMea4vcVsMb

Thấy một người quen mà lại bị SBTN đánh lừa.  Cho nên Chính Khí Việt buộc lòng phải nghe cái youtube đó, để có thể có được bằng chứng cụ thể, nhằm thuyết phục người bạn kia, để họ hiểu rõ rằng: “Chó Chê Phân” thì SBTN mới  CHÊ VIỆC LÀM TAY SAI cho VGCS, trên lĩnh vực truyền thông, đầu độc người nghe,với mục tiêu có lợi cho tập đoàn VGCS!!!
1/  Sau khi nghe xong youtube ngày 24 tháng 3, 2015, VỚI BUỔI HỘI LUẬN GIỮA ĐỖ PHỦ và  TƯỜNG THẮNGChính Khí Việt xin được phép, trước là trả lời người bạn, sau là xin được chia sẻ với quý bạn đọc và đặc biệt cũng xin kêu gọi những người Việt Nam tỵ nạn việt gian cộng sản còn có lòng yêu nước, thấy món nợ của mình với Tiền Nhân còn chưa trả được, hãy xem lại việc nghe SBTN có phải là hành động vì Tổ Quốc, vì tương lai Dân Tộc Việt Nam, vì tri ơn Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh bản thân, hạnh phúc gia đình, tuổi trẻ…, cũng như tri ân Tiền Nhân Việt Nam chăng?  Không ai lại có thể làm cái việc tự nguyện cho chút chút cyanure vào chén cơm để tự đầu độc mình chết, chết dần, chết mòn, chết từ từ  cho tới khi  thở hắt ra hơi cuối cùng mà vẫn không biết tại sao lại mình lại chết thẳng cẳng và vô duyên đến như vậy!!!
2/  Trước khi đi vào đề tài chính, cũng xin nhắc lại với quý bạn đọc rằng,   Đỗ Phủ là phó Giám đốc của SBTN, nghĩa là “chí hữu chí thiết của tên chính trị gia Ba Xu Trúc Hồ”.  Đỗ phủ cũng từng là kẻ đã “HOAN HỈ” đi vào núi Họp Tiểu Diên Hồng với lũ Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Ngô Nhân Dụng, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Ngọc Thành (hiện đang sinh sống tại Ba Lan và kẻ đã đẻ ra tổ chức Công Đoàn Độc Lập Cuội)… và có hội luận viễn liên với tên giáo sư dổm Trần Khuê,  "Sao Khuê"  của tên đầu hàng Tưởng Năng Tiến, và Trần Khuê cũng là kẻ đẻ ra “Chủ Nghĩa Hồ Chí Minh” và cho rằng đại tội đồ Hồ Chí Minh còn hơn cả Quốc Tổ Hùng Vương???....

Còn Tường Thắng là đệ tử của “con nuôi dổm” của Tướng Trình Minh Thế???Tường Thắng cũng là “lãnh đạo” của Việt Nam Quốc Dân Đảng!?

Trong Hội Luận, Tường Thắng đã vâng vâng, dạ dạ trông rất hèn hạ khi được Đỗ Phủ  giảng cho một bài học lịch sử.  Quý vị bạn đọc có thể nghe từ phút thứ 5:25 trở đi sẽ thấy được cái trò bảo vệ VGCS khả ố và bỉ ổi, cũng như kiến thức lịch sử Việt Nam và trình độ lý luận của Đỗ Phủ, chỉ đáng đưa những kiến thức đó đi xuống ÂM PHỦ mà thôi!
  • Nói về chuyện VGCS nương tựa cầu cứu vào Tàu bành trướng để tồn tại, tên Đỗ Phủ đã dám  nói rằng, đại ý: Cộng Sản cũng biết học tập lịch sử và cũng nghiên cứu lịch sử dữ lắm, nên mới biết các triều đại phong kiến Việt Nam như Nhà Trần, Nhà Lê… đều sang cầu cứu nước Tàu, thí dụ như những Vua cuối đời Nhà Trần hoặc Lê Chiêu Thống và các Vua tiếp theo, của thời Lê Trung Hưng…Trước hết -Chính Khí Việt xin nói rõ- chỉ có một Vua Nhà Trần cũng như chỉ có một  Lê Chiêu Thống chứ KHÔNG HỀ CÓ NHIỀU VUA NHÀ TRẦN VÀ NHIỀU VUA SAU LÊ CHIÊU THỐNG,  Đấy là chỗ giả vờ nói nhăng, nói cuội, nói lếu nói láo  để chạy tội cho VGCS  là từ đời thằng đại tội đồ Hồ Chí Minh cho đến các đời những thằng Tổng bí thư VGCS sau này có đi sang Tàu cầu cứu thì cũng là làm theo Tiền Nhân Việt Nam!?
  • Tên Đỗ Phủ này phải nói là –không biết tại sao- lại có thể có được cái bằng Luật Sư, chắc là trình độ thực -như Chính Khí Việt vừa dẫn chứng- nghĩa là cãi đâu thua đấy, cho nên mới bỏ nghề luật sư để đi  ôm đít cho thằng Trúc Hồ  mà bày đặt tập tọng bình luận chính trị - chính em hệt như mấy anh thợ hớt tóc dạo ở vỉa hè Việt Nam cả xưa và cả nay!  Phải thấy để phân biệt rạch ròi cho được, có việc cuối Nhà Trần khi bị Hồ Quý Ly lật đổ cho nên đã cầu cứu Tàu là có thật.  Nhưng đó là tên Vua Nhà Trần đã thoái hoá. Nếu như không có cái quan niệm, cách sống “NGU TRUNG” của thời kỳ đó thì Hồ Quý Ly đã tồn tại với những kiến thức vượt thời gian (của cả Cha lẫn Con), chắc chắn sẽ lèo lái hướng dẫn Việt Nam  vào một con đường –tối thiểu-  cũng như thời Minh Trị của Nhật Bản. Chính vì cái "NGU TRUNG” nên viên ngọc nhà Trần được trân quý bao nhiêu thì đồ phế thải của nhà Trần cũng được lũ NGU TRUNG liếm láp trân trọng bấy nhiêu.  Đó là tai hoạ cho Dân Tộc Việt Nam chỉ vì bị ảnh hưởng cái lối sống “NGU TRUNG” của Ba Tàu cho nên đã không biết lựa chọn giữa ĐÚNGSAI, hệt như tụi Trúc Hồ,  Đỗ Phủ, Ngô Thanh Hải, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Bích, Chu Tất Tiến… như hiện nay.   Vì thế phải thấy rằng câu chuyện nhà Trần sang cầu cứu bên Tàu là tội lỗi của một cá nhân chứ không phải là của TẤT CẢ CÁC VUA NHÀ TRẦN!  Đối với Nhà Lê Trung Hưng  cũng thế.   Còn tập đoàn Việt Gian Cộng Sản thì khác hẳn. Chúng được Nga Xô cho tổ chức ra đời KHÔNG PHẢI VÌ trưởng thành bởi LÒNG YÊU NƯỚC  mà đã dựng nên một triều đại để làm vẻ vang cho Dân Tộc Việt Nam.  Tập đoàn VGCS không phải chỉ cầu cứu Tàu mà là CHÚNG BÁN NƯỚC CHO TÀU, CHÚNG TÀN SÁT BỐN TẦNG LỚP RƯỜNG CỘT CỦA VIỆT NAM để chỉ còn lại những kẻ có cơ bắp,  nhằm phục vụ cho các mưu đồ của chủ nghĩa bành trướng, thực dân đỏ Nga – Tàu, từ lúc ra đời cho đến nay.  Và ngày hôm nay, tập đoàn hậu duệ của thằng đại tội đồ Hồ Chí Minh thì lại mở rộng ra để bó buộc người dân bị trị Việt Nam trở thành NÔ BINH VÀ NÔ LỆ KHÔNG CHỈ CHO TÀU và NGA mà còn cả cho các tập đoàn kinh tế của các nước khác trên thế giới.  Chỉ xin lấy một thí dụ nhỏ, Nhật vừa cho không 50 ngàn USD cho Bộ công an VGCS, để giúp đỡ gia đình công an VGCS có khó khăn.  Thằng chó ngao đứng hàng thứ hai là thằng Đặng Văn Hiếu đã đích thân tổ chức Lễ nhận tiền, mà -rõ khổ-  chỉ có 50 ngàn USD thôi, chắc là cũng chưa đủ tiền cho con vợ bé của nó mua một chiếc xe hơi sang trọng!
Tại sao Nhật Bản lại hào phóng cho công an VGCS, cũng như một số nước khác cũng thế mà họ không ưu tiên cho người dân bị trị đói khổ Việt Nam?   Nhất là Nhật Bản có bao giờ họ nghĩ tới việc phải bù đắp cho người dân Thái Bình, Nam Định là nơi mà Phát Xít Nhật bắt nhổ lúa trồng đay phục vụ cho chiến tranh đã khiến cho gần 2 triệu người Việt Nam chết mòn mỏi vì đói.  Đó là cái chết đau khổ nhất vì nó dai dẳng và cũng vì cha nhìn thấy con phải chết, vợ nhìn thấy chồng phải chết…mà không cách nào có thể giúp cho thân nhân của mình chết lẹ hơn vì  chính mình cũng là kẻ phải chết y như vậy!!!

Thử hỏi có công an nào trên thế giới này lại được ngoại quốc ưu ái đến như thế không? Cho nên Chính Khí Việt gọi chúng là CHÓ NGAO mới thật là chính xác!
KẾT LUẬN

Hỡi hai tên Đỗ Phủ và Tường Thắng, khi nào bọn bay còn biết lựa chọn đề tài để bình luận như ta vừa trình bày xong một chi tiết nhỏ, nhưng nó có hiệu quả lớn để khẳng định Dân Tộc Tính của Việt Nam, chứ không phải như lũ chúng bay đã xuyên tạc lịch sử để bôi nhọ những triều đại Việt Nam đã đánh tan quân xâm lược Tàu: Đó là Nhà Trần và Nhà Lê.

Chỉ khi đó chúng bay mới là người, còn hiện nay chúng bay chỉ là cái loa rè của lũ TRUYỀN THÔNG BẤT LƯƠNG. Không có lòng tự trọng và không xứng đáng là người Việt Nam  chân chính!!!

Chính Khí Việt
Ngày 07 Tháng 4, 2015
__._,_.___

Posted by: chinh viet 

Ông Nguyễn Hưng Quốc chạy tội cho VC???


Kính chuyển đến quý bạn đọc để tường.

BP
Nang The Ky 21 Magazine

2015-04-07 8:21 GMT-07:00 Huu Nguyen <

Phỏng vấn giả tưởng
Ông Nguyễn Hưng Quốc chạy tội cho VC???
Hữu Nguyên (huunguyen@saigontimes.org)

LGT: Internet có trang web, chuyên phỏng vấn những người nổi tiếng đã chết (Interviews with the Famously Departed) cả trăm năm như Charles Dickens (1812-1870), Mark Twain (1835-1910), Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865), Tổng Thống Mỹ Thomas Jefferson (1743-1826); hay đã qua đời hơn 2 ngàn năm như những triết gia Socrates (470-399 BC), Plato (437-347 BC), Aristotle (384-322 BC). Đặc biệt, Art Buchwald (1925-2007), một nhà văn nhà báo nổi tiếng thế giới, tác giả của 30 tác phẩm, và hàng ngàn bài viết trên 550 nhật báo, tuần báo, tạp chí trên thế giới, là Tổng biên tập nhật báo New York Herald Tribune ở Paris, từng được trao giải thưởng Pulitzer vào năm 1982, được phong tặng là bậc thầy về phỏng vấn giả tưởng (the master of fictional interviews), cũng có những bài phỏng vấn giả tưởng các nhân vật nổi tiếng, kể cả Tổng Thống Barack Obama... Noi gương các bậc tiền bối, chúng tôi mở mục phỏng vấn giả tưởng (fictional interview), thuần tuý do trí tưởng tượng của người viết. Mọi kết luận đúng sai, có lý hay vô lý... hoàn toàn thuộc quyền độc giả.

So sánh chế độ độc tài với chế độ cộng sản, ai cũng phải thừa nhận, về bản chất, chế độ cộng sản bao giờ cũng độc ác, tàn nhẫn, man rợ gấp vạn lần chế độ độc tài.
Trong chế độ độc tài, quyền hành thường nằm trong tay một cá nhân hay một nhóm người, Tuy khét tiếng độc ác trong lịch sử nhân loại, nhưng hầu hết những cá nhân hay nhóm người độc tài đó, vẫn là những người có gia đình, có niềm tin tôn giáo và biết yêu thương tổ quốc dân tộc. Thậm chí, có nhiều nhà độc tài còn có công lao to lớn với tổ quốc như Suharto, Tưởng Giới Thạch, Park Chung-hee, Lý Quang Diệu... Đặc biệt, vì không có đảng phái hay chủ nghĩa làm nền tảng, chế độ độc tài thường cáo chung cùng với cái chết của nhà độc tài.
Trái lại, chế độ CS, với nên chuyên chế “độc tài đảng trị”, quyền hành nằm trong tay đảng, nên khi lãnh tụ CS qua đời, chế độ CS vẫn được tiếp nối với lãnh tụ CS mới. Hơn nữa, vì cuồng tín và giáo điều theo chủ nghĩa tam vô (vô gia đình, vô tôn giao, vô tổ quốc), nên người cộng sản sẵn sàng hy sinh cả cha mẹ, vợ con, bè bạn... kể cả việc gây nên những cuộc thảm sát hàng triệu người của chính dân tộc mình, mà không sợ bất cứ hình phạt nào của Chúa, Phật, tổ tiên, ông bà… ở kiếp sau.
Những điểm trên, cùng lịch sử nhân loại suốt 100 năm qua đã chứng minh, chế độ CS nguy hiểm gấp vạn lần so với chế độ độc tài. Và lịch sử nhân loại cũng thừa nhận, ttrong những chế độ cộng sản, cộng sản Việt Nam là chế độ độc ác, tàn nhẫn, hiếu chiến và hiếu sát nhất. Vậy mà có những người Việt được mệnh danh là trí thức, đã bất lương khi chạy tội cho chế độ CSVN bằng cách, thay thế bản chất CS của chế độ đó bằng bản chất độc tài.
Trong bài,  “Tôi không chống Cộng” đề ngày 8.5.2013, ông Nguyễn Hưng Quốc viết, “ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa”. Ông giải thích: “trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại”. Nhận định về chế độ CSVN hiện nay, ông NHQ khẳng định, “Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất”. Sau khi dùng xảo ngữ làm trò ảo thuật úm ba la, biến CS thành độc tài, hai năm sau, ngày 23.3.2015, nhân dịp cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu qua đời, ông NHQ đã ca ngợi độc tài qua bài viết, “Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới”. Bài phỏng vấn giả tưởng sau đây lấy cảm hứng từ những ý tưởng trên của ông NHQ.

​ 
HỎI: Ông VC Nguyễn Tấn Dũng, theo ông, chế độ VN hiện nay là chế độ CS hay chế độ độc tài?
VC NTD: Sao ông lại hỏi ngớ ngẩn như vậy? Chúng tôi là những người cộng sản có nòi, cha mẹ là đảng viên, chúng tôi là đảng viên, và ngay cả con cháu cũng đều là đảng viên. Tương lai vài chục hay cả trăm năm nữa, con cháu của tôi không làm thủ tướng như tôi thì cũng là bộ trưởng, thứ trưởng, và lãnh đạo đất nước này mãi mãi vẫn là đảng cộng sản. Tất nhiên, chế độ của chúng tôi là độc tài, nhưng là CS ĐỘC TÀI ĐẢNG TRỊ.
HỎI: Lịch sử nhân loại xưa nay, không thiếu những lãnh tụ độc tài là người yêu thương gia đình, có niềm tin tôn giáo và yêu tổ quốc. Còn những người lãnh đạo cộng sản độc tài…
VC NTD: Lãnh đạo CS độc tài chúng tôi bao giờ cũng vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc. Vì thế, chúng tôi mới sẵn sàng giết cha mẹ, vợ con và cả triệu đồng bào mình cho đảng cộng sản quốc tế và thế giới đại đồng, mà không sợ Chúa, sợ Phật, sợ ông bà tổ tiên gì. Bằng chứng là vì quyền lợi của đảng cộng sản đàn anh, chúng tôi đã cắt đất, cắt biển, dâng cho Trung Cộng, cho dù Trung Cộng đã xua quân dậy cho chúng tôi một bài học, giết hại không biết bao nhiêu người VN. Lịch sự VN xưa nay có vua chúa độc tài nào tàn nhẫn độc ác và phản bội tổ quốc như chúng tôi?
HỎI: Như vậy, tại sao ngày 8.5.2013, trong bài viết, “Tôi không chống Cộng”, ông Nguyễn Hưng Quốc viết: "Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất."?
VC NTD: Ông NHQ viết như vậy thì chúng tôi rất đội ơn ông ta. Chúng tôi cũng mong mọi người Việt quốc gia hãy chịu khó đọc bài của ông NHQ thường xuyên. Có như vậy, mới hết coi chúng tôi là CS. Có như vậy mới tin chúng tôi cũng chỉ là những nhà độc tài giống như Tưởng Giới Thạch, Suharto, Lý Quang Diệu... [ha, ha, ha...] Cảm ơn ông NHQ, nhờ ông, những người cộng sản chúng tôi, tuy đã gây ra cho dân tộc VN không biết bao nhiêu tội ác kinh tâm động phách, thương luân bại lý, trong suốt 85 năm qua, nay bỗng trở thành những nhà độc tài. Cũng giống như những thằng cướp của giết người có hệ thống (serial killers), nay được giảm án thành những tên trộm vặt, thì làm sao không đội ơn ông NHQ. Phải thành thật khâm phục ông NHQ đã viết LÁCH rất điêu luyện. Đang là CSVN hai tay chúng tôi dính đầy máu, thoắt chốc trở thành độc tài!!! Ha ha, hay hay thiệt! Nhưng phục cái tài viết LÁCH của ông NHQ một, VC chúng tôi phải phục cái tâm đổi trắng thay đen mà không biết ngượng của ông NHQ gấp mười… Quả thật, VC chúng tôi phải gọi ông NHQ là bậc thầy!


HỎI: Là VC có nòi, tại sao ông không thích là CS mà lại thích mọi người tin ông là nhà độc tài?
VC NTD: Nếu mọi người tin chúng tôi là nhà độc tài, chúng tôi sẽ rũ bỏ sạch tất cả những tội ác chúng tôi đã phạm. Được như vậy, không những chúng tôi vui mừng mà ngay cả vợ con, cháu chắt chúng tôi cũng vô cùng biết ơn... Thú thực, làm người cộng sản, chúng tôi cũng nhục nhã đau khổ lắm. Nhục với dân, với nước, với hàng xóm láng giếng không nói. Còn nhục cả với vợ con nữa. Thú thiệt với ông, ngày nay, nhiều đảng viên VC chúng tôi phải giấu vợ con, đâu có dám nói thật cho vợ con biết mình là đảng viên cộng sản. Thẻ đảng phải giấu, đi sinh hoạt cũng lén lút. Nhiều đảng viên cộng sản bị vợ con phát hiện là phải ly dị, đau khổ trăm điều. Nên khi đọc được bài viết của ông NHQ chúng tôi đã đưa bài đó cho vợ con đọc để vợ con hiểu, chúng tôi chỉ là những nhà lãnh đạo độc tài chứ không phải là người CS. "Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất". Nhưng khổ nỗi, vợ con chúng tôi đâu có tin. Mà người Việt trong và ngoài nước cũng khôn ngoan và hiểu biết lắm. Làm sao họ có thể hiểu một cách ngây thơ giống như ông NHQ được.
HỎI: Mới đây, 6.4.2015, ông Nguyễn Hưng Quốc nhận xét Lý Quang Diệu là "nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới". Vậy ông có nghĩ, tương lai, giống như Lý Quang Diệu, VC các ông sẽ trở thành những "nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới"?
VC NTD: Ồ, chuyện đó ai mà không ham. Xưa nay, thằng đồ tể giết người nào mà không ước mơ mình trở thành thánh? Nhưng chúng tôi e rằng đó là chuyện không tưởng. Dù sao, chúng tôi cũng rất biết ơn ông NHQ. VC chúng tôi chuyên khủng bố, giết người cướp của suốt nửa thế kỷ, mà nhờ ông NHQ, bỗng chốc có ngày được thành "nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới", thì còn gì sung sướng bằng. Hay, hay, hay thiệt. Mấy năm trước, đọc bài của NHQ nói chúng tôi không phải là CS mà chỉ là độc tài, VC chúng tôi tuy khoái, nhưng vẫn không thích chữ "độc tài". Rồi có người nói nhỏ là tương lai, ông NHQ sẽ viết bài ca ngợi những nhà lãnh đạo độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới. Khi đó tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tin, tin. Ông NHQ viết LÁCH điêu luyện như vậy làm tôi nhớ tới truyện ngắn Bút Máu của nhà văn VC nằm vùng Vũ Hạnh của chúng tôi...
HỎI: Trong bài “Tôi không chống Cộng” ông NHQ viết: “Ở cả hai lần bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam (11/2005 và 4/2009), tôi đều không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền Việt Nam. Nhưng tôi nghe được phong thanh đâu đó: người ta cho là tôi “chống Cộng”. Mà không phải từ phía chính quyền, một số bạn đọc ở hải ngoại, ngay cả những người có vẻ có cảm tình với tôi cũng thường nói: Tôi “chống Cộng”. Riêng tôi, xin nói một cách thành thực: Tôi không hề chống Cộng.” Ông nghĩ sao về những điều ông NHQ đã viết?
VC NTD: [mỉm cười nham hiểm…] Ông NHQ đã viết đúng một điểm và thiếu một điểm. Đúng là cả hai lần ông bị chúng tôi cấm nhập cảnh vào VN, ông ta đều không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền VC chúng tôi.
HỎI: Tại sao vậy?
VC NTD: Tại vì chúng tôi không thể nào giải thích thỏa đáng được! Lý do là nếu NHQ chống cộng, chúng tôi đã không cho ông ta vô. Nhưng sự thực, ai cũng biết, VC chúng tôi đã cho ông ta vô VN nhiều lần. Như vậy làm sao có thể bảo vì ông ta chống cộng mà không cho vô?
HỎI: Còn thiếu một điểm?
VC NTD: Thiếu một điểm là ông ta đã không nói hết những gì dư luận đồn thổi khi VC chúng tôi cấm không cho ông ta nhập cảnh. Tôi nhớ khi đó, dư luận ở hải ngoại có 2 giả thuyết về việc ông NHQ không được nhập cảnh vô VN. Giả thuyết thứ nhất, ông NHQ chống cộng nên chúng tôi không cho ông ta vô. Giả thuyết thứ hai, VC chúng tôi muốn biến ông NHQ trở thành một trí thức chống cộng cò mồi tại hải ngoại nên chúng tôi diễn trò khổ nhục kế, không cho ông ta vô.
HỎI: Tại sao ông NHQ không nói đủ cả hai giả thuyết?
VC NTD: Tôi không hiểu tại sao ông NHQ chỉ nói có một giả thuyết? Vì ông ta không biết, hay biết nhưng ông ta cố tình quên? Nếu cố tình quên thì tại sao? Ông ta làm như vậy khiến người ta dễ hiểu lầm, cho rằng ông ta né tránh… Và có người suy diễn, chính sự né tránh của ông NHQ đã chứng tỏ, giả thuyết này là có thật.
HỎI: Nhưng với ông, trong 2 giả thuyết đó, giả thuyết nào đúng? Và ngoài 2 giả thuyết đó ra, còn giả thuyết nào khác không?
VC NTD: Tôi không thể trả lời câu hỏi này. Nhưng tôi nhớ, người quốc gia các ông vẫn thuộc nằm lòng câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì VC nói, mà hãy NHÌN KỸ những gì VC làm”. Tại sao các ông chỉ dùng câu nói đó với VC chúng tôi, mà không dùng câu nói đó với tất cả mọi người, kể cả ông NHQ?
HỎI: Chúng tôi không có cơ hội ở gần ông NHQ thì làm sao chúng tôi NHÌN KỸ việc ông NHQ làm?
VC NTD: Đối với một nhà văn, việc làm của ông ta là những gì ông ta viết… Chẳng lẽ ông không biết điều đơn giản đó sao?
HỎI: Nhìn kỹ những gì ông ta viết??? Ý ông muốn nói…
VC NTD: Ý tôi muốn nói là hai bài ông vừa đề cập đó. Ông NHQ viết hai bài cách nhau gần hai năm, nhưng rõ ràng có một sợ chỉ đỏ xuyên qua cả hai bài đó… Ha, ha, ha… Độc đáo là ở chỗ đó! Đáng sợ là ở chỗ đó! Bút Máu cũng là ở chỗ đó!...

Hữu Nguyên



--

Tạp Chí Nàng Thế Kỷ 21
__._,_.___

Posted by: Nang Magazine 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List